Cửa biển Nhật Lệ cách trung tâm thành phố Đồng Hới chừng 3km về phía đông bắc. Cửa biển này chính là hạ nguồn của sông Nhật Lệ bắt nguồn từ đỉnh Trường Sơn phía tây Quảng Bình đổ ra biển Đông. Theo sử sách, cửa biển Nhật Lệ có từ xa xưa và từ thời Lý được dân gian gọi với nhiều tên gọi khác nhau như: “Trú Nha”, “Cửa Sài”… Trong quá trình lịch sử từ thế kỷ X đến nay, cửa biển Nhật Lệ có vị trí rất quan trọng cả về quân sự, văn hóa, du lịch và môi trường…
Từ những năm đầu của thế kỷ thứ XI – khi quá trình Nam tiến của dân tộc Việt Nam diễn ra mạnh mẽ thì cửa biển Nhật Lệ là nơi diễn ra những trận giao chiến quyết liệt giữa hai quốc gia Đại Việt và Chiêm Thành. Khởi đầu là năm 1044, vua tôi Chiêm Thành quấy nhiễu biên cương phía Nam, vua Lý Thái Tông phải thân chinh cầm quân vượt đèo Ngang đánh dẹp, thủy quân nhà Lý tập kết ở cửa biển Nhật Lệ. Năm 1069, nhà Tống (Trung Quốc) và Chiêm Thành lập âm mưu xâm lược Đại Việt ở cả hai phía bắc và nam. Để loại trừ mối uy hiếp từ phía Nam, làm thất bại âm mưu liên kết của quân Tống, Lý Thánh Tông quyết định đánh Chiêm thành. Vua sai Lý Thường Kiệt làm tiên phong và tự mình thân chinh chỉ huy thủy quân tiến vào cửa biển Nhật Lệ.
Ngày 6/6 AL năm Mậu Tý (1408), Đặng Tất, người Hà Tĩnh, từng làm quan cai quản Hóa Châu (Thừa Thiên - Huế) đã đánh tan quân phản loạn Phạm Thế Căng (tướng trung thành của nhà Trần, nhưng đến triều đại nhà Hồ đã hàng phục nhà Minh) tại cửa Nhật Lệ. Phạm Thế Căng sau đó bị bắt và xử tội chết .
Trong quá trình các chúa Nguyễn “Nam tiến” vào xây dựng cơ đồ vùng đất “phên dậu” phía Nam của dân tộc Việt Nam, cửa biển Nhật Lệ đã có vai trò rất quan trọng giúp chúa Nguyễn xác lập chủ quyền Đàng Trong trước sự cát cứ của chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Do vậy, trong gần nửa thế kỷ (1627-1672) thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh, nếu bên nào chiếm giữ được cửa biển Nhật Lệ sẽ giữ thế chủ động để Nam tiến (đối với chúa Trịnh) hoặc hành quân ra Bắc (đối với chúa Nguyễn). Cửa biển này đã trở thành chiến địa, là thành trì và cũng là ranh giới hưu chiến của hai bên. Đây là một loại cửa lệch, không rộng, không sâu dễ xoay chuyển thuyền bè cộng thêm hình thế tựa cái cổ chai rất lợi thế để tạo nên nút thắt chiến lược trong chiến tranh. Nhận thấy những điểm mạnh, yếu đó, chúa Nguyễn đã cho Đào Duy Từ và Nguyễn Hữu Dật thiết kế và thi công hệ thống thành lũy quân sự kiên cố xuất phát từ hai phía... Ở phía Đông có lũy Động Cát bắt đầu từ cửa Nhật Lệ chạy dọc dải cát ven biển đề phòng quân đối phương tấn công từ biển vào. Ở phía Nam là các lũy Trường Dục, Đầu Mâu, Động Hải… với lũy cao hào sâu, bố phòng chặt chẽ cộng thêm dây xích sắt giăng ngang và cọc nhọn đóng ngay cửa biển.
Trong gần 50 năm giao tranh ác liệt, chúa Trịnh vẫn không đánh bại được họ Nguyễn. Tháng 12/1633, khi Trịnh Tráng cho quân thủy bộ tiến đánh cửa biển Nhật Lệ, Trấn thủ Nguyễn Phúc Kiều xin đóng cọc gỗ để chặn địch cửa biển Nhật Lệ buộc quân của chúa Trịnh phải rút lui . Tiếp đến, năm 1672, Trịnh Tạc đã huy động lực lượng quân hùng hậu chinh phạt Đàng Trong hòng giành thắng lợi quyết định. Chúa Nguyễn Phúc Tần đã huy động 20 vạn quân do hoàng tử Nguyễn Phúc Hiệp làm nguyên soái, sai tướng Nguyễn Hữu Dật đóng giữ lũy Trường Sa, Tài Lễ đem chiến thuyền và đóng cọc giữ ở cửa biển Nhật Lệ ...
Trong chiến tranh giữa nhà Tây Sơn và chúa Nguyễn những năm 1787-1802, cửa Nhật Lệ cũng luôn đóng vai trò quan trọng và là nơi diễn ra một số trận đánh. Ví như, tháng Giêng năm Nhâm Tuất (1802), nhà Tây Sơn sai Thiếu úy Đặng Văn Tất và Đô Đốc Lực đem 100 chiến thuyền chặn ngang cửa biển Nhật Lệ…
Trong kháng chiến chống Pháp, Đồng Hới là cửa ngõ phía bắc của kinh thành Huế và cửa Nhật Lệ trở thành yết hầu phục vụ kế sách tác chiến lâu dài. Thực dân Pháp đã hai lần tấn công vào cửa Nhật Lệ để đổ bộ chiếm thành Đồng Hới (1885, 1947) nhưng đều bị quân và dân ta dũng cảm đánh trả. Sau khi hiệp định Giơnevơ được ký kết (7/1954), quân viễn chinh Pháp phải xuống tàu há mồm đậu ở cửa Nhật Lệ để rút về nước.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cửa biển Nhật Lệ thuộc sự quản lý của miền Bắc XHCN và là một trong những cửa ngõ quan trọng để quân đội ta cho tàu thuyền vận chuyển bộ đội, vũ khí, lương thực… vào chiến trường miền Nam và với vị trí chiến lược quan trọng về quân sự nên nơi đây đã được đế quốc Mỹ và quân đội Việt Nam cộng hòa thường xuyên cho lực lượng biệt kích thâm nhập và cho máy bay đánh phá ác liệt. Ngày 30/6/1964, biệt kích người nhái của địch đã bí mật thâm nhập cửa biển Nhật Lệ đã bị quân dân ta đánh trả quyết liệt. Cũng từ địa danh này mà những anh hùng đủ mọi lứa tuổi đã xuất hiện, tiêu biểu là tấm gương “Em bé Bảo Ninh”, anh hùng Trương Pháp, “Mẹ Suốt”… Đặc biệt, cửa Nhật Lệ vinh dự được Bác Hồ nghỉ lại và tắm biển trong dịp Người vào thăm quân dân Quảng Bình và đặc khu Vĩnh Linh ngày 16/6/1957.
Cửa biển Nhật Lệ đã có đóng góp rất lớn đến hoạt động kinh tế, đời sống và hình thành nên bản sắc văn hóa của vùng đất Quảng Bình nói chung và cư dân Đồng Hới nói riêng. Cửa biển Nhật Lệ còn tạo nên cảnh quan mô trường thiên nhiên và môi trường sống lý tưởng cho thành phố Đồng Hới. Cửa biển Nhật Lệ đã có ảnh hưởng góp phần hình thành nên dòng chảy văn hóa, thơ ca… của vùng đất Quảng Bình. Năm 1478, trên đường đi đánh Chiêm Thành, trong lúc tập kết thủy quân ở cửa biển Nhật Lệ, vua Lê Thánh Tông nhìn thấy cửa Nhật Lệ đã làm bài thơ:
Hiễu khóa lâu thuyền độ vĩ lư
Phiên phiên chinh bái trú hà cừ
Sa hàn địa lão tà dương ngạn
Sương lẫm phong phi túc thảo khư
Long ngự cửa truyền Tiên Lý tích
Kình phong do ký Hậu Trần thư
Chỉ kim Thiệu Bá tuần Nam quốc
Nhật tịch phong cương vạn lý dư.
Tạm dịch:
Sớm cưỡi lâu thuyền vượt biển Đông
Bóng cờ phất phới dựng ven sông
Cát lạnh, đất chai khi bóng xế
Sương mù gió thổi, chốn gò hoang
Dấu xưa vua Lý còn truyền đó
Sóng cả vẫn ghi thuở hậu Trần
Đến nay Thiệu Bá tuần Nam quốc
Cõi bờ muôn dặm mở mênh mông.
Đại thi hào Nguyễn Du làm Cai bạ ở Quảng Bình (1809-1813) đã rất nhiều lần cảm tác trước vẻ đẹp của biển, cát Nhật Lệ:
“Nhật Lệ triều đầu dũng hải môn
Thanh Vị trọc Kinh đồng bất túc
Hoàn hoa lục trúc lưỡng vong ngôn”.
Dịch nghĩa:
“Nước sông cửa Lệ biển vỗ mình
Vị Kinh trong đục dòng chảy miết
Vàng hoa, xanh trúc đều lặng thinh”
(Trích trong Tặng bạn - tập Nam Trung Tạp Ngâm của Nguyễn Du).
Hay khi nói về tâm trạng Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích, Nguyễn Du viết: “Buồn trông cửa bể chiều hôm/ Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?” mà cho đến hôm nay giới nghiên cứu văn học vẫn đang nghiêng về đáp án nơi góc thành cổ Đồng Hới, sát cửa biển Nhật Lệ, chốn ông tá túc lúc làm quan là không gian, địa điểm thuyết phục nhất để chấp bút nên hai câu Kiều thơ mộng này.
Sau này, nhà thơ Tố Hữu cũng có những vần thơ hùng tráng:
“Một tay lái chiếc đò ngang
Bến Sông Nhật Lệ quân sang đêm ngày
Sợ chi sóng gió tàu bay
Tây kia mình đã thắng, Mỹ này ta chẳng thua!”.
Đó cũng là lời minh chứng rõ nét nhất về khung cảnh nên thơ trữ tình của nắng vàng, cát trắng, biển xanh Nhật Lệ từ ngàn xưa đã làm đắm say biết bao tâm hồn thi sĩ; cùng với đó là những tháng năm lịch sử kiên cường về một thời đấu tranh và công cuộc dựng xây của mảnh đất và con người nơi đôi bờ Nhật Lệ.
Cửa biển Nhật Lệ là di tích lịch sử và danh thắng cấp Quốc gia theo Quyết định số 97/QĐ ngày 21/01/1992 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch)