Tiềm năng di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế

I. KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT QUẢNG BÌNH, QUẢNG TRỊ, THỪA THIÊN HUẾ

Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế hiện nay thuộc khu vực Bắc Trung Bộ, phía nam là đèo Hải Vân, điểm cuối phía bắc là đèo Ngang/Hoành Sơn. Xét về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên, vùng này phía Tây là sườn Đông Trường Sơn, giáp nước bạn Lào, có đường biên giới dài với các cửa khẩu Cha Lo (Quảng Bình), Lao Bảo (Quảng Trị), tạo điều kiện giao lưu kinh tế với Lào và các nước Đông Nam Á trên lục địa. Phía Đông hướng ra Biển Đông với tuyến đường bộ ven biển dài, với nhiều hải sản và có nhiều cảng nước sâu có thể hình thành các cảng biển, thuận lợi cho giao thương bằng đường biển. Vùng này dài về chiều bắc nam, hẹp chiều đông tây, có nơi hẹp nhất là ở khu vực tỉnh Quảng Bình (50km), nằm trên trục giao thông xuyên Việt, là điều kiện thuận lợi giao lưu kinh tế với các tỉnh phía Bắc và phía Nam. Đây là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc khác nhau, phân bố không đều từ Đông sang Tây, trong đó người Kinh chiếm đa số, sinh sống chủ yếu ở đồng bằng ven biển phía Đông, các dân tộc thiểu số (Cơ Tu, Bru-Vân Kiều, Chứt…) sinh sống chủ yếu ở vùng miền núi phía tây. Đây là vùng đất có sự phong phú, đang dạng về địa hình: đồi nối, đồng bằng ven song, ven biển và các đảo gần bờ, ngoài ra còn có các tiểu địa hình xen kẻ như thung lũng, cồn, bàu. Tuy nhiên, địa hình đồng bằng ở đây nhỏ và hẹp, có nhiều động cát di động. Địa hình có sự chia cắt mạnh mẽ bởi sông ngòi và các đèo (đèo ngang, đèo dọc), cùng với sự đa dạng về tộc người đã góp phần làm cho văn hóa nơi đây phong phú, đa dạng. Về khí hậu, vùng đất này có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, chia làm các mùa rõ rệt, khí hậu mang tính chất chuyển tiếp giữa miền bắc và miền nam. Ở đây có mùa mưa dài và thường đến trễ, có gió Lào chi phối khoảng từ tháng 3 đến tháng 6 mỗi năm, vào mùa mưa dễ lũ lụt.

Vùng đất này có bề dày lịch sử lâu đời, với sự khởi đầu vào thời kỳ hậu kỳ đá cũ, với văn hóa Sơn Vi nổi tiếng, phát hiện ở phía tây Quảng Trị. Thời đá mới ở vùng đất này có các nền văn hóa: Hòa Bình, trong giai đoạn hậu kỳ đá mới là văn hóa Bàu Tró. Bước vào thời đại kim khí, vùng đất này có các nhóm di tích/văn hóa nổi tiếng là Sa Huỳnh. Trong thời kỳ Bắc thuộc (179TCN - 938), vùng đất Thanh - Nghệ - Tĩnh ngày nay thuộc Quận Cửu Chân, khu vực phía Nam đèo Ngang đến Bình Định hiện nay có 1 thời gian ngắn (111 TCN - 192) thuộc quận Nhật Nam của nhà Hán. Sau khi giành độc lập vào năm 938, vùng đất Thanh - Nghệ - Tĩnh nằm dưới sự cai quản của các triều đại: Nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê, Tây Sơn, Nguyễn. Còn vùng đất phía nam đèo Ngang trở vào Bình Thuận, từ năm 192 đến 1832 thuộc lãnh thổ của vương quốc Champa. Tuy nhiên, từ giữa thế kỷ XI (1069), cùng với quá trình Nam tiến, lãnh thổ của Champa ngày càng thu hẹp, vùng đất này bắt đầu sắp nhập vào lãnh thổ nhà Lý từ giữa thế kỷ XI và sáp nhập hoàn toàn vào thời nhà Trần (1306). Trong quá trình lịch sử, với vai trò, vị thế của mình, vùng đất này là nơi đặt kinh đô của các triều đại: Tây Sơn, Nguyễn, là thủ phủ chúa Nguyễn.

II. KHÁI QUÁT VỀ TIỀM NĂNG DI SẢN VĂN HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH BA TỈNH QUẢNG BÌNH, QUẢNG TRỊ, THỪA THIÊN HUẾ

Các yếu tố tự nhiên, xã hội và lịch sử đã góp phần tạo nên ở khu vực Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế một hệ thống các di sản văn hóa và thiên nhiên vô cùng phong phú, đa dạng, chứa đựng nhiều giá trị về lịch sử, văn hóa, tâm linh, kinh tế - du lịch và giáo dục truyền thống. Ở đây, chúng ta có thể thấy sự hiện diện của các di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, các di tích quốc gia đặc biệt, di tích quốc gia, di tích cấp tỉnh, di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, cấp tỉnh, các bảo vật quốc gia… không chỉ của người Việt mà còn của các dân tộc thiểu số khác. Điều này phản ánh giá trị, bề dày truyền thống, cũng như nhiều tiềm năng du lịch ở các địa phương. Có thể nói, khu vực Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế được đánh giá là những địa phương có nhiều lợi thế, tiềm năng và giàu tài nguyên phát triển du lịch ở Việt Nam.

Tuy nhiên, tùy vào điều kiện tự nhiên, lịch sử, văn hóa, xã hội và dân cư khác nhau, mà ở mỗi địa phương có những thế mạnh phát triển du lịch khác nhau. Với những di sản còn lại, vùng đất 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế có thể khai thác thế mạnh để phát triển các loại hình du lịch tiêu biểu như du lịch sinh thái – nghỉ dưỡng, du lịch lịch sử - văn hóa; du lịch trải nghiệm.

1. Du lịch sinh thái – nghỉ dưỡng

Du lịch sinh thái - nghỉ dưỡng là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hoá bản địa gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương. Du lịch sinh thái – nghỉ dưỡng là loại hình du lịch có trách nhiệm đối với môi trường ở các khu thiên nhiên còn tương đối hoang sơ với mục đích thưởng ngoạn thiên nhiên, kết hợp nghỉ dưỡng, hòa mình vào thiên nhiên và cá giá trị văn hóa kèm theo của quá khứ và hiện tại, thúc đẩy công tác bảo tồn, có ít tác động tiêu cực đến môi trường và tạo các ảnh hưởng tích cực về mặt kinh tế - xã hội cho cộng đồng địa phương .

Tỉnh Quảng Bình có rất nhiều tiềm năng, với sự giàu có về nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, phong cảnh núi rừng hùng vĩ với những cánh rừng nguyên sinh, nhiều sông suối, hang động, thác nước tự nhiên vẫn giữ được vẻ đẹp nguyên sơ vốn có, ở đây cũng có bờ biển dài, nhiều đảo nhỏ ven biển, là lợi thế to lớn để địa phương có thể phát triển loại hình du lịch sinh thái – nghỉ dưỡng, trong đó, nổi bật là Di sản thiên nhiên thế giới Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng và Biển Nhật Lệ.

Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng với diện tích hơn 120.000 ha, được UNESCO hai lần công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới vào năm 2003 và năm 2015 với các tiêu chí về địa chất, địa mạo, đa dạng sinh học và cảnh quan môi trường. Được mệnh danh là “vương quốc hang động”, Phong Nha – Kẻ Bàng với hệ thống địa mạo được hình thành trên 400 triệu năm, chứa đựng trong lòng hệ thống hang động còn nhiều bí ẩn chưa khám phá, hiện nay mới khám phá, đo vẽ được hơn 400 hang động. Trong đó, có nhiều hang động mang giá trị nổi bất toàn cầu như Sơn Đoòng – hang động tự nhiên lớn nhất thế giới, hang Khe Ry – có dòng sông ngầm dài nhất thế giới, hang Én lớn thứ ba thế giới, hang Va có hệ thống thạch nhũ độc đáo hàng đầu thế giới, động Thiên Đường – hang khô dài nhất Châu Á, hang Pigmy, động Phong Nha, động Tiên Sơn,  hang Tối,… cùng với hệ thống hang động kỳ vĩ là các dòng sông, những cánh rừng nguyên sinh với hệ sinh vật vô cùng đa dạng và phong phú. Hệ thống động Phong Nha đã được Hội nghiên cứu hang động Hoàng gia Anh (BCRA) đánh giá là hang động có giá trị hàng đầu thế giới với 4 điểm nhất: có các sông ngầm dài nhất, có cửa hang cao và rộng nhất, những bờ cát rộng và đẹp nhất, những thạch nhũ đẹp nhất , nhờ vậy, Phong Nha - Kẻ Bàng đã được UNESCO hai lần công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới với các tiêu chí về địa chất, địa mạo, đa dạng sinh học và cảnh quan môi trường, đây cũng là Di sản đầu tiên trong khu vực Đông Nam Á đạt 3 trên 4 tiêu chí dành cho một Di sản thiên nhiên thế giới.

Cửa biển Nhật Lệ cách trung tâm thành phố Đồng Hới chừng 3km về phía đông bắc. Đây là nơi tận cùng của con sông cùng tên bắt nguồn từ đỉnh Trường Sơn phía tây Quảng Bình đổ ra biển. Cửa biển Nhật Lệ là di tích lịch sử và danh thắng cấp quốc gia theo Quyết định số 97/QĐ ngày 21-1-1992 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin nay là Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch. Cửa biển Nhật Lệ là một trong những thắng cảnh của tỉnh Quảng Bình. Năm 1809-1813, đại thi hào Nguyễn Du làm cai bạ ở Quảng Bình đã có câu thơ miêu tả cảnh hoàng hôn của cửa biển: “Buồn trông cửa biển chiều hôm/Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa". Cảnh đẹp của cửa biển đã đi vào thơ ca, vùng sông nước trên bến dưới thuyền tấp nập. Bãi tắm Nhật Lệ trong xanh ngày càng thu hút du khách muôn phương về với Đồng Hới, với cửa biển Nhật Lệ của thành phố hoa hồng. Cửa biển này chứa đựng nhiều giá trị về quân sự, lịch sử, văn hóa và kinh tế du lịch, là điểm đến hấp dẫn cho nhiều du khách.

Thêm nữa, Quảng Bình còn có nhiều cảnh quan hấp dẫn du lịch như vùng Đèo Ngang-Hoành Sơn, đèo Lý Hoà; suối nước khoáng nóng Bang với nhiệt độ trên 1050C tại lỗ phun thích hợp với hoạt động du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, chữa bệnh; Bàu Tró, phá Hạc Hải… Quảng Bình có bờ biển dài 116 km từ Đèo Ngang đến Hạ Cờ với các bãi biển đặc sắc cùng những đồi cát trắng, những rừng phi lao ven biển, những bãi tắm đẹp, bãi cát bằng phẳng, nước sạch và không khí trong lành, dài từ 3 – 7 km có sức chứa tới hàng vạn khách du lịch nghỉ dưỡng và tắm biển, có giá trị để phát triển thành các khu nghỉ dưỡng biển cao cấp, có sức cạnh tranh cao. Tiêu biểu là: Nhật Lệ-Quang Phú, Mỹ Cảnh-Bảo Ninh, Lý Hoà–Đá Nhảy, Hải Ninh Ngư Hoà…. Cùng với những bãi biển đẹp, Quảng Bình còn có 4 con sông lớn: Sông Roòn, sông Gianh, sông Dinh và sông Nhật Lệ. Có vịnh nước sâu Hòn La có độ sâu 15m, xung quanh có nhiều đảo nhỏ như Hòn Nồm, Hòn Chùa, Hòn Cọ, Đảo chim và bãi san hô trắng rộng hàng nghìn hecta ở phía Bắc, có nhiều giá trị cao đối với phát triển du lịch.

Quảng Bình có dải cát ven biển dài hơn 116 km với nhiều bãi tắm đẹp, hoang sơ, nước trong cát mịn, như: Nhật Lệ, Bảo Ninh, Quang Phú, Đá Nhảy, Hải Ninh… và nhiều món ăn hải sản tươi ngon, độc đáo hương vị Quảng Bình; các khu suối nước nóng mang trong mình nhiều nguyên tố vi lượng quý hiếm tốt cho sức khỏe và rất thuận lợi để đầu tư phát triển các khu du lịch nghỉ dưỡng, chữa bệnh cao cấp như suối nước nóng Bang, suối nước nóng Phúc Trạch, suối nước nóng Ngư Hóa…

Trên cơ sở các lợi thế, du lịch Quảng Bình đã tập trung khai thác và phát triển các sản phẩm du lịch nổi bật nhằm phục vụ du khách và mang lại hiệu quả cao. Nổi bật là các sản phẩm du lịch thiên nhiên, du lịch sinh thái khám phá, trải nghiệm như: suối nước Moọc, khám phá sông Chày – hang Tối, rào Thương – hang Én, thung lũng sinh Tồn – hang Thủy Cung, động Thiên Đường, động Phong Nha, khám phá hệ thống hang động Tú Làn – hang Tiên, hang Va – hang Nước Nứt, những trải nghiệm khác biệt, thung lũng Hamada – hang Trạ Ang, Công viên Ozo, Khám phá hang Đại Ả – hang Over – hang Pigmy, Khu du lịch sinh thái diễn giải Vườn thực vật…

Đặc biệt, Quảng Bình sở hữu tuyến du lịch đẳng cấp quốc tế “Chinh phục Sơn Đoòng – hang động lớn nhất thế giới” đã thu hút hàng triệu người trên thế giới quan tâm, các tạp chí du lịch uy tín trên thế giới là một trong những sản phẩm du lịch đáng trải nghiệm nhất thế giới (kể cả chuyến đi thực tế và chuyến đi qua công nghệ thực tế ảo). Sơn Đoòng thực sự đã trở thành điểm đến và điểm nhấn của du lịch Việt Nam trong suốt thời gian qua. Bên cạnh đó các sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng biển, du lịch chăm sóc sức khỏe, thể thao giải trí cao cấp với hệ thống khách sạn, resort ven biển, tổ hợp nghỉ dưỡng giải trí và sân golf FLC, Khu nghỉ dưỡng phục hồi chức năng suối nước nóng Bang cũng là những sản phẩm du lịch đặc trưng của tỉnh. Không chỉ vậy, các sản phẩm du lịch cộng đồng, du lịch văn hóa – lịch sử, du lịch nông nghiệp, du lịch tìm hiểu đa dạng sinh học cũng đang phát triển và khẳng định được vị thế trên bản đồ du lịch Việt Nam.

Du lịch Quảng Bình được các tạp chí, trang web du lịch hàng đầu thế giới như Lonely Planet, Telegraph, Trip Advisor… đánh giá là một trong những nơi đáng trải nghiệm nhất tại Việt Nam từ năm 2019 – 2021. Tại Hội nghị xúc tiến đầu tư Quảng Bình năm 2018, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã nhắc lại Quảng Bình là làn gió đại phong mới cho du lịch Việt Nam và khẳng định Quảng Bình không đơn giản là một Việt Nam thu nhỏ hay là sự phản ánh sắc nét về vẻ đẹp tiềm ẩn, vẻ đẹp bất tận của Việt Nam mà Quảng Bình thực sự là “viên kim cương màu xanh” của châu Á. Những tháng đầu năm 2022, du lịch Quảng Bình đã đạt được các tổ chức, tạp chí trong nước và quốc tế tiếp tục đánh giá cao: Quảng Bình là một trong 7 tỉnh xếp hạng cao nhất trong Bộ chỉ số năng lực cạnh tranh du lịch Việt Nam (VTCI) năm 2021 của Hội đồng Tư vấn Du lịch (TAB) phối hợp với Ban Nghiên cứu Phát triển Kinh tế tư nhân (Ban IV); Phong Nha – Kẻ Bàng được AFAR (Mỹ) vinh danh là 01 trong 39 điểm đến của thế giới năm 2022, hang Sơn Đoòng được CN Traveller vinh danh là 01 trong 7 kỳ quan thế giới năm 2022.

Tỉnh Quảng Trị cũng được thiên nhiên ban tặng với nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, đa dạng với nhiều loại địa hình: rừng, núi, động, thác, sông, hồ, biển, đảo… có thể khai thác để phát triển du lịch sinh thái – nghỉ dưỡng. Ở khu vực phía Bắc Quảng Trị có rừng nguyên sinh Rú Lịnh, phía Nam nổi tiếng với Trằm Trà Lộc. Khu vực phía Tây tập trung rất nhiều địa danh, là những khu du lịch sinh thái đang hình thành, tương lai trở thành địa chỉ hấp dẫn du khách gần xa: Đồi Rockpile; Khe Gió; Khu danh thắng Đakrông; Suối nước nóng Klu; Thác Chênh Vênh; Thác Ồ Ồ; Thác Tà Puồng; Thác Luồi; Động Tà Puồng; Động Prai; Khu bảo tồn thiên nhiên Hướng Hóa... Đặc biệt, Thác nước Tà Puồng, Động Tà Puồng và Động Prai nằm liền kề nhau thuộc xã Hướng Lập, xã Hướng Việt, huyện Hướng Hóa là điểm đến vô cùng thú vị cho những ai thích khám phá vẻ đẹp hoang sơ và hùng vĩ của núi rừng, thác nước và hang động.

Quảng Trị có bờ biển dài 75 km, vùng ven bờ của tỉnh có 16 xã miền biển thuộc 4 huyện ven biển gồm Vĩnh Linh, Gio Linh, Triệu Phong, Hải Lăng và huyện đảo Cồn Cỏ. Tỉnh còn có lợi thế về địa lý - kinh tế, là đầu mối giao thông nằm ở trung điểm đất nước, ở vị trí quan trọng - điểm đầu trên tuyến huyết mạch của Hành lang kinh tế Đông - Tây về phía Việt Nam nối Lào - Thái Lan - Mianmar qua Cửa khẩu quốc tế Lao Bảo đến các cảng biển miền Trung. Đây là điều kiện thuận lợi để Quảng Trị mở rộng hợp tác kinh tế trong khu vực, giao thương hàng hóa, vận tải quốc tế, phát triển thương mại, dịch vụ và du lịch. Đặc biệt, nhiều người tìm đến Quảng Trị bởi những bãi cát trắng mịn, trải dài với bờ biển thoai thoải, làn nước trong xanh. Các khu dịch vụ - du lịch biển đã được quy hoạch từ Cửa Việt đến Địa đạo Vịnh Mốc có tổng diện tích 1.222 ha với các bãi tắm đẹp nổi tiếng như: bãi tắm Cửa Tùng, bãi tắm Cửa Việt, bãi tắm Gio Hải... là điểm đến lý tưởng cho du khách trong dịp hè. Đặc biệt, tam giác du lịch Cửa Tùng - Cửa Việt - đảo Cồn Cỏ đang được định hướng thành khu du lịch quốc gia để phát huy tối đa thế mạnh du lịch nghỉ dưỡng, ẩm thực, khám phá biển đảo, vui chơi giải trí, sân gôn...

Vùng đất Thừa Thiên Huế là nơi duy nhất hội tụ đầy đủ các dạng địa hình của Việt Nam từ núi cao về biển khơi: rừng núi, vùng đồi, đồng bằng, đầm phá, biển. Cũng chính hệ sinh thái đa dạng này, trong diễn trình phát triển của lịch sử đã tạo nên những nét đặc trưng rất riêng cho các cộng đồng dân cư ở Thừa Thiên Huế. Thiên nhiên đã ban tặng những di sản thiên nhiên kỳ vĩ và thu hút cho vùng đất này như sông Hương, núi Ngự; đồi Vọng Cảnh, Vườn quốc gia Bạch Mã còn nguyên vẹn; Vịnh Lăng Cô là một trong những vịnh đẹp nhất thế giới… Tiêu biểu nhất là hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai. Khu đầm phá này trải dài 68 km thuộc địa phận thành phố Huế và 4 huyện: Phong Điền, Quảng Điền, Phú Vang, Phú Lộc. Hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai kéo dài theo hướng tây bắc - đông nam dọc theo bờ biển, có chiều dài 68 km, tổng diện tích mặt nước 216 km², lớn nhất khu vực Đông Nam Á và gồm 3 đầm, phá hợp thành: phá Tam Giang, đầm Thủy Tú và đầm Cầu Hai. Vùng đầm phá này có vẻ đẹp riêng với vùng nước mênh mông, trong xanh, phẳng lặng nằm kề các đụn cát chắn phía biển, có các vùng cửa sông, có chim nước cư trú. Cư dân vùng đầm phá có nguồn gốc lâu đời với bản sắc văn hóa đặc biệt - văn hóa của cư dân sống trên mặt nước (mưu sinh trên đầm phá là chủ yếu). Các lễ hội dân gian ở đây khá đặc biệt, gắn với tín ngưỡng, tôn giáo, tinh thần thượng võ của vùng sông nước; một số lễ hội diễn tả khung cảnh sản xuất trên đầm phá và mong muốn sự may mắn bình yên, có vụ mùa bội thu. Với cảnh quan và giá trị sinh thái độc đáo, đầm phá Tam Giang – Cầu Hai là điều kiện thuận lợi để Thừa Thiên Huế đẩy mạnh phát triển du lịch.

2. Du lịch lịch sử - văn hóa

Nếu như loại hình du lịch sinh thái – nghỉ dưỡng, còn người hướng đến tìm hiểu, hòa mình với thiên nhiên thì du lịch lịch sử, văn hóa là loại hình du lịch thu hút được du khách đi đến khám phá các yếu tố lịch sử, văn hóa của một quốc gia hay vùng miền. Trải nghiệm hình thức du lịch này, du khách vừa có thể tham quan, vừa được mở rộng kiến thức, kinh nghiệm về lĩnh vực lịch sử, văn hóa. Hình thức du lịch này cũng nằm trong ngành du lịch, sử dụng các yếu tố văn hóa như phong tục tập quán, tín ngưỡng, di tích lịch sử, lễ hội, kiến trúc, nghệ thuật hay các sản phẩm văn hóa nổi bật để thu hút du khách.

Quảng Bình với lịch sử hình thành và phát triển lâu đời luôn là mảnh đất quan trọng, thiêng liêng của lãnh thổ Việt Nam. Nơi đây từ xưa đã gắn liền với sự nghiệp đấu tranh, bảo vệ và xây dựng quê hương, đất nước. Quảng Bình tự hào mang trong mình nhiều giá trị lịch sử vẻ vang, cũng là mảnh đất sản sinh nhiều nhân tài cho đất nước. Quảng Bình là vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi giao thoa và tiếp biến văn hoá, có di chỉ văn hoá Bàu Tró, các di chỉ thuộc nền văn hoá Hoà Bình và Đông Sơn, đền thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh, Chùa Hoằng Phúc hơn 700 năm, nhiều di tích lịch sử - văn hóa như: Thành cổ Đồng Hới, Quảng Bình Quang, Hoành Sơn Quan, Luỹ Thầy, Rào Sen, thành quách của thời Trịnh – Nguyễn, Bến đò và tượng đài mẹ Suốt, trận địa pháo lão dân quân Đức Ninh, chiến khu Thuận Đức, đình Hòa Ninh, đình Phù Trịch, điện Thành hoàng Vĩnh Lộc, di tích Mai Lượng, vụ thảm sát B52, chùa An Xá, lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh,… nhiều địa danh nổi tiếng trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc như Cự Nẫm, chiến khu Trung Thuần, Hang Lèn Hà, Cảnh Dương, Cha Lo, Cổng Trời, Xuân Sơn, Long Đại.v.v… Quảng Bình có nhiều di tích lịch sử cách mạng đường Hồ Chí Minh có giá trị đặc biệt thu hút được khách du lịch như Cổng Trời, Khe Gát, hang Tám TNXP, hệ thống di tích lịch sử A.T.P (cua chữ A, ngầm Talê, đèo Pu La Nhích) trên đường 20 quyết thắng, phà Xuân Sơn, Long Đại, Quán Hàu, ngã tư Thạch Bàn – Bang…

Trong quá trình lịch sử, đã hình thành nhiều làng văn hoá nổi tiếng và được truyền tụng từ đời này sang đời khác như “Bát danh hương”: “Sơn - Hà - Cảnh - Thổ - Văn - Võ - Cổ - Kim”. Nhiều danh nhân tiền bối học rộng, đỗ cao và nổi tiếng xưa và nay trên nhiều lĩnh vực quân sự, văn hóa – xã hội như Dương Văn An, Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Hàm Ninh, Hoàng Kế Viêm, Đại tướng Võ Nguyên Giáp… Ở Quảng Bỉnh còn có sự hiện diện của nhiều di tích, di vật văn hóa Champa, dù đều là phế tích nhưng cũng chứa đựng những giá trị lịch sử - văn hóa như thành Cao Lao Hạ, Thành Nhà Ngo, phế lũy Lâm Ấp, lũy cũ Hoàn Vương, các di tích đền tháp như Đại Hữu, Mỹ Đức, Trung Quán, Lòi Giàng, động Phong Nha, Chùa Hang, các tác phẩm điêu khắc Champa ở bảo tang Quảng Bình. Quảng Bình hiện có rất nhiều di tích lịch sử, văn hóa được công nhận: 51 di tích cấp quốc gia và 52 di tích cấp tỉnh phân bố rộng khắp ở các thành phố, huyện thị trên địa bàn tỉnh.

Bên cạnh di sản văn hóa vật thể, ở Quảng Bình cũng có nhiều di sản văn hóa phi vật thể có giá trị, là tiềm năng lớn để phát triển du lịch. Quảng Bình hiện đang sở hữu 6 di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia (hò khoan Lệ Thủy, Lễ hội cầu ngư, “Hò thuốc cá”, huyện Minh Hóa, “Lễ hội trỉa lúa của người Bru-Vân Kiều” xã Trường Sơn, huyện Quảng Ninh, tín ngưỡng thờ Mẫu và Bài chòi), 2 di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại (Bài chòi Trung bộ, Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt) và 1 di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp (Ca trù). Ở đây, còn có những lễ hội đặc sắc như Lễ hội rằm tháng 3 tại huyện Minh Hóa, Lễ hội đua, bơi thuyền truyền thống trên sông Kiến Giang của người dân Lệ Thủy dịp Quốc Khánh, Lễ hội cầu ngư ở Hải Ninh, Cảnh Dương, Lý Hòa, Lễ hội tưởng niệm thành hoàng và các bậc khai canh thôn Thượng Phong hay những điệu hát dân gian như hát Ca trù ở làng Đông Dương,… Các di sản đã góp phần tích cực trong việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa đặc sắc của người dân Quảng Bình, thu hút sự quan tâm của du khách gần xa, góp phần phát triển du lịch lịch sử, văn hóa.

Trong số các tiềm năng về du lịch lịch sử, văn hóa, nổi bật nhất là di tích thành cổ Đồng Hới, Hoành Sơn Quan.

Thành Đồng Hới được khởi công xây dựng vào năm Gia Long thứ 10 (1812). Thành được xây trên mảnh đất năm xưa chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho dựng luỹ Trấn Ninh (hay còn gọi là luỹ Đào Duy Từ, 1631) và đồn Động Hải (1774) – hệ thống thành lũy được đắp bằng đất dưới thời chúa Nguyễn với mục đích cho quân đội trấn giữ biên giới phía Bắc nhằm phòng vệ và tấn công mỗi khi quân của chúa Trịnh vượt Đèo Ngang đánh chiếm vùng đất Đàng Trong của chúa Nguyễn. Phát huy vị trí địa chiến lược đó, đến đầu thế kỷ XIX – dưới thời vua Gia Long và vua Minh Mạng, thành Đồng Hới được xây dựng kiến cố bằng vôi, vữa, gạch, đá. Thành cổ này chứa đựng nhiều giá trị về chính trị - quân sự, kiến trúc và nghệ thuật và văn hóa – du lịch.

Hoành Sơn Quan là một trong những điểm du lịch Quảng Bình thuộc địa phận thôn Vĩnh Sơn, xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Không chỉ là điểm du lịch, Hoành Sơn Quan còn là một chứng minh lịch sử do vua Minh Mệnh lập ra để kiểm soát người qua đường và sau này là phòng tuyến, chiến địa quan trọng trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Là một di tích lịch sử hiếm hoi còn tồn tại ở Việt Nam, Hoành Sơn vẫn giữ được những nét cổ kính đậm chất truyền thống với những cửa ải bằng đá được xây dựng trên núi. Cổng cao hơn 4m, thành đăng dài hơn 30m xây dựng xung quanh cùng với 1.000 bậc ở hai phía núi thành. Có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng, dãy Hoàng Sơn đã lưu trữ rất nhiều vết hằn cả trong thời cổ cận và hiện đại ở Việt Nam. Dẫu nhiều dấu vết chiến tranh xưa có hiện lên thì Hoành Sơn Quan vẫn mang nét thơ mộng với cảnh sách thiên nhiên trong lành và dãy núi vẫn hiên ngang hùng vĩ. Đây chính là địa điểm phù hợp với những du khách vừa muốn ngắm cảnh đẹp, vừa muốn tìm hiểu về lịch sử nước nhà.

Nếu như Quảng Bình có nhiều thế mạnh về các di tích danh thắng, đặc biệt là di sản thiên nhiên thế giới Phong Nha – Kẻ Bàng thì Quảng Trị là vùng đất đặc biệt trong các cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, là vùng đất bị chia cắt giữa hai chiến tuyến từ năm 1954, do đó ở đây có nhiều di tích lịch sử - văn hóa, nhất là loại hình di tích cách mạng – kháng chiến.

Quảng Trị là một vùng đất hiền lành, giản dị, nhưng rất đổi tự hào về một thời quá khứ hào hùng – nơi hội tụ ý chí khát vọng đấu tranh thống nhất của cả dân tộc Việt Nam và nhân loại yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới. Quảng Trị có vị trí địa chính trị - kinh tế quan trọng, nơi điểm đầu của Hành lang kinh tế Đông – Tây về phía Việt Nam; nằm trên các trục giao thông quan trọng của quốc gia cả về đường bộ, đường sắt, đường biển; có nhiều tiềm năng phát triển du lịch với nguồn tài nguyên thiên nhiên và nhân văn phong phú và da dạng. Nói đến tiềm năng du lịch Quảng Trị, trước hết phải kể đến hệ thống di tích lịch sử cách mạng đồ sộ và độc đáo như: Thành cổ Quảng Trị, Cụm di tích Đôi bờ Hiền Lương – Bến Hải, Đường 9 – Khe Sanh; đường mòn Hồ Chí Minh huyền thoại, Địa đạo Vịnh Mốc, Sân bay Tà Cơn, Hàng rào điện tử Mc.Namara, Nhà đày Lao Bảo, đảo Cồn Cỏ anh hùng… cùng với các Nghĩa trang Liệt sỹ quốc gia Trường Sơn, Nghĩa trang Đường 9, đã tạo nên tính đặc thù, độc đáo và hấp dẫn của hệ thống di tích chiến tranh của Quảng Trị. Đây cũng là cơ sở để khai thác loại hình du lịch văn hóa tâm linh mang màu sắc lịch sử cách mạng tại Quảng Trị. Với 602 di tích, cụm di tích lịch sử cách mạng và danh thắng, thì có đến 479 di tích được công nhận di tích cấp tỉnh, 33 di tích và cụm di tích được công nhận là di tích cấp quốc gia, trong đó có 4 di tích và cụm di tích được công nhận là di tích cấp quốc gia đặc biệt quan trọng là: Thành cổ Quảng Trị, Cụm di tích Đôi bờ Hiền Lương – Bến Hải, Đường 9 – Khe Sanh; đường mòn Hồ Chí Minh huyền thoại, Địa đạo Vịnh Mốc.

Mặt khác, Quảng Trị là một vùng đất giàu lịch sử, văn hóa với rất nhiều lễ hội, trong đó có những lễ hội dân gian đã được hình thành từ xa xưa được gọi là lễ hội cổ truyền (Lễ hội bài chòi, Lễ hội Ariêu ping…), lễ hội cách mạng (Lễ hội Thống nhất non sông, Nhịp cầu xuyên Á, Huyền thoại Trường Sơn…), lễ hội liên quan đến các tôn giáo (Kiệu La Vang)… thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước.

Tiêu biểu nhất trong số các di tích lịch sử - văn hóa ở Quảng Trị, phải kể đến 2 di tích đặc biệt quan trọng là Thành cổ Quảng Trị và Đôi bờ Hiền Lương.

Thành cổ Quảng Trị hoặc Cổ thành Quảng Trị là một Di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam được xếp hạng đợt 4, tọa lạc ở trung tâm thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị, được xây dựng vào đầu thời Gia Long (1809). Ban đầu thành được đắp bằng đất, tới năm 1837 vua Minh Mạng cho xây lại bằng gạch. Thành có dạng hình vuông, chu vi tường thành là hơn 2.000 m, cao hơn 4 m, dưới chân dày hơn 12 m, bao quanh có hệ thống hào, bốn góc thành là 4 pháo đài nhô hẳn ra ngoài. Thành được xây theo lối kiến trúc thành trì Việt Nam với tường thành bao quanh hình vuông được làm từ gạch nung cỡ lớn; kết dính bằng vôi, mật mía và một số phụ gia khác trong dân gian. Thành trổ bốn cửa chính ở các phía Đông, Tây, Nam, Bắc. Thành cổ Quảng Trị chứa đựng nhiều giá trị về kiến trúc – nghệ thuật, lịch sử - văn hóa, giá trị tâm linh, giáo dục truyền thống và kinh tế du lịch.

Di tích Đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải thuộc địa bàn huyện Vĩnh Linh (các xã Vĩnh Thành, Vĩnh Giang, Vĩnh Sơn, thị trấn Cửa Tùng) và huyện Gio Linh (xã Trung Hải), tỉnh Quảng Trị. Địa danh Hiền Lương - Bến Hải là nơi đã chứng kiến nỗi đau chia cắt hai miền và những sự kiện lịch sử gắn với quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của quân và dân ta trong thời kỳ chống Mỹ - Ngụy. Sau khi Hiệp định Giơ Ne Vơ được ký kết (ngày 20/7/1954), nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền Bắc - Nam, lấy vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải) làm ranh giới, để chờ đến tháng 7/1956 tiến hành tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Nhưng với những biến cố do sự phá hoại của các thế lực thù địch, đã khiến chúng ta phải mất 21 năm sau (1975), với bao xương máu của chiến sĩ, đồng bào đã đổ xuống mới giành được độc lập, thống nhất đất nước. Trục chính của di tích này nằm xuyên suốt theo hướng Bắc - Nam mà trung tâm chính là chiếc cầu Hiền Lương lịch sử - nhịp nối giữa Cột cờ phía Bắc và Cụm tượng đài “Khát vọng thống nhất” ở bờ Nam. Các thành phần chính của di tích gồm: Khu vực đôi bờ cầu Hiền Lương, Đồn Công an Cửa Tùng, Các bến đò trên sông Hiền Lương - Bến Hải (Bến đò Cửa Tùng (Bến đò A), Bến đò Tùng Luật (Bến đò B), Bến đò Lũy (Bến đò C), Bến đò Thượng Đông và Dục Đức. Di tích Đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải đã trở thành điểm tham quan du lịch hấp dẫn và có nhiều ý nghĩa, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, nâng cao lòng tự hào dân tộc và ý thức về chủ quyền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam không chỉ hôm nay mà còn mãi với các thế hệ mai sau. Với những giá trị đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã xếp hạng Di tích lịch sử Đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải (huyện Vĩnh Linh và huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị) là di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 2383/QĐ-TTg ngày 09/12/2013).

Thừa Thiên Huế từng là thủ phủ của xứ Đàng Trong, Kinh đô của đất nước ta dưới thời Quang Trung - Nguyễn Huệ (1786-1801) và triều Nguyễn (1802-1945). Đặc biệt, nơi đây là miền đất địa linh nhân kiệt, văn hiến, có bề dày về văn hóa, có chiều sâu về lịch sử. Văn hoá Huế hình thành và phát triển qua dòng chảy hơn 700 năm của Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế được gìn giữ và phát triển qua bao đời nay, chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Vùng đất này đang gìn giữ kho tàng văn hóa vật thể, phi vật thể phong phú, đa dạng, đặc sắc trong dòng chảy văn hóa Việt Nam.

Nơi đây lưu giữ gần như nguyên vẹn tổng thể kiến trúc của một Kinh đô với những giá trị di sản vật thể và phi vật thể vô giá với 7 di sản vật thể, phi vật thể và di sản tư liệu được UNESCO công nhận; gần 1.000 di tích đã được kiểm kê, trong đó có 166 di tích được công nhận ở các cấp; hơn 500 lễ hội; 3 di sản đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia: Ca Huế (2015), Nghề dệt Dèng của dân tộc Tà Ôi (2016) và Lễ hội truyền thống ADa Koonh (Mừng lúa mới) của người Pa Cô (2019). Trong đó, di sản nghệ thuật Ca Huế đang được tỉnh xây dựng và hoàn thiện hồ sơ đệ trình UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Huế là địa phương duy nhất trên cả nước có tới 7 di sản được UNESCO vinh danh là di sản thế giới (Quần thể di tích Cố đô Huế), di sản phi vật thể đại diện của nhân loại (Nhã nhạc Cung đình Huế , Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt , Nghệ thuật Bài Chòi Trung Bộ ), di sản tư liệu thế giới và khu vực (Mộc bản triều Nguyễn, Châu bản triều Nguyễn - di sản sản tư liệu thế giới), Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế di sản sản tư liệu khu vực), trong đó có 5 di sản là của riêng Thừa Thiên Huế và 2 di sản chung với các địa phương khác.

Trong số các di sản văn hóa đó, tiêu biểu nhất phải kể đến là Quần thể di tích cố đô Huế. Đây là một trong 5 di sản văn hóa thế giới được UNESCO công nhận ở Việt Nam. Quần thể Di tích Cố đô Huế có quy mô lớn nhất trong số các di sản văn hóa thế giới ở Việt Nam, với hơn 1.400 công trình kiến trúc thuộc 32 cụm di tích, nằm trải rộng trên một diện tích hàng chục triệu m2, bao trùm lên toàn bộ diện tích của thành phố Huế cùng với bốn huyện và thị xã lân cận, bao gồm nhiều loại hình di tích thành lũy, chùa chiềng, đình làng, lăng tẩm, đàn miếu… ở trong và ngoài kinh thành. Sau chiến tranh, rất nhiều công trình đã bị hư hại, xuống cấp, trong đó, khu vực Tử Cẩm Thành gần như bị xóa sổ, Hoàng thành Huế chỉ còn 62/136 công trình kiến trúc… Toàn bộ quần thể di tích Cố đô Huế sau chiến tranh còn khoảng 300 công trình lớn nhỏ, và hầu hết đều bị hư hỏng ở những mức độ khác nhau. Năm 1993, Quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa thế giới, là di sản duy nhất ở Việt Nam chỉ đáp ứng 1 tiêu chí (tiêu chí IV) của di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới. Huế thể hiện là một bằng chứng nổi bật của quyền lực phong kiến Việt Nam đã mất mà đỉnh cao của nó vào đầu thế kỷ XIX. Là một ví dụ nổi bật của một kinh đô phong kiến phương Đông, cho thấy tầm quan trọng của khu vực này trong lịch sử, cũng như giá trị, tiềm năng của các di sản đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực này trong hiện tại và tương lai.

Ngoài ra, khi đến Huế, chúng ta cũng cần chú ý đến một di tích quan trọng khác là làng cổ Phước Tích nằm cách trung tâm thành phố Huế 40 km về hướng Bắc, mang một vẻ đẹp nguyên sơ của làng quê Việt Nam. Làng được bao bọc bởi con sông Ô Lâu trong xanh, hiền dịu. Theo sử sách, làng Phước Tích được thành lập từ năm 1479 dưới thời vua Lê Thánh Tông và có diện tích đến khoảng 49 ha. Vào năm 2009, làng cổ Phước Tích là ngôi làng thứ hai được công nhận là di sản cấp quốc gia của Việt Nam. Với những lợi thế quần thể nhà rường cổ dày đặc, đường nét trên gỗ vô cùng tinh tế được chạm khắc kỹ lưỡng, những di tích, đình, chùa, miếu… đường xá cây xanh nối liền nhau một cách tự nhiên, sinh động… Tất cả đều mang đậm nét tín ngưỡng của dân xứ Huế. Một điều đặc biệt khác, ở làng cổ Phước Tích còn có các nghề truyền thống như nghề gốm nổi tiếng đã hơn 500 năm với kỹ thuật nung bằng rơm, tạo ra những sản phẩm trứ danh. Vì thế khi đến với làng cổ Phước Tích bạn sẽ được khám phá và trải nghiệm một cuộc sống thanh bình của một miền quê yên ả, gần gũi, thân thiện. Đây cũng là địa điểm nhiều bạn trẻ ưu tiên đưa vào lịch trình khám phá Huế tự túc cũng bởi giá trị đặc sắc mà làng cổ Phước Tích mang lại.

Ở Thừa Thiên Huế cũng có nhiều di tích được công nhận cấp quốc gia và quốc gia đặc biệt, đáng chú ý là Quần thể di tích cố đô Huế, hệ thống các di tích liên quan đến Hồ Chí Minh (Thừa Thiên Huế), tháp Champa Mỹ Khánh, hệ thống chùa chiền, đình làng, đền, miếu, các di sản văn hóa Champa, tiêu biểu là tháp Champa Mỹ Khánh,  thành Lồi, thành Hóa Châu,… Các di tích tích này thuộc nhiều loại hình khác nhau: di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ; di tích lịch sử và khảo cổ; di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh; di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật; di tích khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật; danh lam thắng cảnh đơn thuần; di tích khảo cổ đơn thuần; di tích kiến trúc nghệ thuật đơn thuần; di tích còn lại là các di tích lịch sử đơn thuần. Các loại hình di tích này đa dạng về loại hình, quy mô, được bảo tồn khá tốt, là tài nguyên lớn trong sự phát triển du lịch. Ngoài ra, ở các địa phương này, có hàng nghìn di tích được công nhận di tích cấp tỉnh, với nhiều loại hình khác nhau: di tích lịch sử, di tích khảo cổ, di tích kiến trúc nghệ thuật, danh lam thắng cảnh... trải qua hàng ngàn năm, chứa đựng nhiều gia trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật. Cùng với đó, là nhiều di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh khác nhưng chưa được công nhận.

Ngoài các lễ hội đặc sắc, rất nhiều làng nghề truyền thống liên quan đến nông nghiệp, ngư nghiệp cũng được hình thành như: tranh làng Sình, hoa giấy Thanh Tiên, đan đệm Phò Trạch, đan lát Bao La, gót Dạ Lê, nón Hương Cần, rượu làng Chuồn, gốm Phước Tích... Một đặc điểm nữa hết sức lý thú, đó là trong hệ sinh thái đồng bằng, Thừa Thiên Huế đã hình thành cho mình một hệ sinh thái vườn, “vườn hóa” cả đô thị Huế, nâng lên thành một nghệ thuật sống đầy minh triết. Vườn Huế chính là vườn văn hóa, vườn nhân văn. Không chỉ xuất hiện ở đô thị, mà còn ở các lăng tẩm, các lâm viên lớn như Thiên An, Bạch Mã…

Ở Thừa Thiên Huế cũng có nhiều di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, cấp tỉnh đặc sắc như Du thuyền rồng và nghe ca Huế trên sông Hương, Hò Huế, Ca kịch Huế, Tuồng, các Lễ hội Cầu Ngư, lễ tế Nam Giao, lễ tế Xã Tắc, lễ hội Điện Huệ Nam/Hòn Chén… Bên cạnh các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của người Việt, ở Thừa Thiên Huế còn hiện diện nhiều di sản văn hóa phi vật thể của các dân tộc thiểu số sinh sống trên địa bàn tỉnh, liên quan đến các yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục - tập quán, văn học - nghệ thuật, lễ hội, lễ tết, văn hóa giao tiếp, luật tục - luật pháp, tri thức bản địa... Nhiều di sản văn hóa của các dân tộc thiểu số ở Thừa Thiên Huế đã được đưa vào danh mục di sản văn phi vật thể quốc gia, cấp tỉnh như Nghề dệt thổ cẩm của người Cơ Tu, Múa Tân’tung Da ’dá của người Cơ Tu, Nói lý, hát lý của người Cơ Tu, Nghề dệt Dèng của dân tộc Tà Ôi (2016) và Lễ hội truyền thống ADa Koonh (Mừng lúa mới) của người Pa Cô (2019)… . Mới đây, tỉnh Thừa Thiên Huế được du khách lựa chọn là điểm đến hấp dẫn với các sản phẩm mang thương hiệu đặc trưng như “Huế - Kinh đô ẩm thực”, “Huế - Kinh đô áo dài Việt Nam”, “Huế - Thành phố Lễ hội”... Các di sản này đã góp phần tạo nên giá trị văn hóa đặc sắc cũng như tiềm phát triển các loại hình di lịch tiêu biểu ở vùng đất này.

Ngoài các di tích, tính đến đầu năm 2021, cả nước có 10 đợt công nhận với 215 hiện vật, nhóm hiện vật được công nhận là bảo vật quốc gia theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, do đáp ứng các tiêu chí được quy định tại Luật Di sản văn hóa năm 2001: Là hiện vật gốc độc bản; là hiện vật có hình thức độc đáo; là hiện vật có giá trị đặc biệt liên quan đến một sự kiện trọng đại của đất nước hoặc liên quan đến sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân tiêu biểu; hoặc là tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng về giá trị tư tưởng, nhân văn, giá trị thẩm mỹ tiêu biểu cho một khuynh hướng, một phong cách, một thời đại; hoặc là sản phẩm được phát minh, sáng chế tiêu biểu, có giá trị thực tiễn cao, có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển ở một giai đoạn lịch sử nhất định; hoặc là mẫu vật tự nhiên chứng minh cho các giai đoạn hình thành và phát triển của lịch sử trái đất, lịch sử tự nhiên, trong đó vùng Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế có 15 bảo vật quốc gia được Thủ tướng công nhận, với nhiều loại hình khác nhau của các nền văn hóa Đông Sơn, Đại Việt, Champa, thời hiện đại, hiện đang lưu giữa tại các Bảo tang Cổ vật cung đình Huế, Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên Huế, Bảo tang Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế.

3. Du lịch trải nghiệm 

Du lịch trải nghiệm là một hình thức du lịch thiên về trải nghiệm của bản thân, học hỏi, khám phá những điều mới. Du lịch trải nghiệm du khách sẽ được hòa mình vào thiên nhiên hoang dã, cuộc sống sinh hoạt của người dân địa phương, tự tay mình tham gia những hoạt động thường ngày, khám phá những món ăn độc đáo… Trên cơ sở các lợi thế sẵn có về thiên nhiên và văn hóa, tộc người, ở Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, bên cạnh các thế mạnh về du lịch sinh thái – nghỉ dưỡng, lịch sử - văn hóa, ở đây còn có thế mạnh về du lịch trải nghiệm. Các sản phẩm du lịch thiên nhiên, du lịch sinh thái khám phá, trải nghiệm ở Quảng Bình như: suối nước Moọc, khám phá sông Chày – hang Tối, rào Thương – hang Én, thung lũng sinh Tồn – hang Thủy Cung, động Thiên Đường, động Phong Nha, khám phá hệ thống hang động Tú Làn – hang Tiên, hang Va – hang Nước Nứt, những trải nghiệm khác biệt, thung lũng Hamada – hang Trạ Ang, Công viên Ozo, Khám phá hang Đại Ả – hang Over – hang Pigmy, Khu du lịch sinh thái diễn giải Vườn thực vật… Bên cạnh đó, Quảng Bình là nơi cư trú của nhiều đồng bào các dân tộc ít người như: Bru – Vân Kiều và Chứt, còn lưu giữ nhiều nét văn hoá truyền thống độc đáo đã để lại cho Quảng Bình những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể, là những tài nguyên du lịch nhân văn có giá trị để phát triển du lịch trải nghiệm. Ở đây, cũng có nhiều làng nghề thủ công truyền thống như Làng chiếu cói An Xá (Lệ Thủy), Làng nón lá Quy Hậu, Làng nón Thổ Ngọa, Làng nghề rèn đúc Mai Hồng, Làng nghề đan lát mây tre Thọ Đơn, Làng bánh tráng Tân An, Làng nghề nước mắm Cảnh Dương... Du khách có thể tham gia trải nghiệm đời sống văn hóa hằng ngày của người dân, trực tiếp tham gia làm nghề thủ công truyền thống với người dân,… Ở Quảng Trị, du khách có thể tham quan trải nghiệm ở Sơn Thủy Homestay được xây dựng với phong cách độc đáo, mới lạ, tọa lạc cạnh "Nữ hoàng" bãi tắm Cửa Tùng, huyện Vĩnh Linh. Đến nơi đây, ngoài việc nghỉ dưỡng, du khách còn có thể kết hợp ghé tham quan Khu di tích quốc gia đặc biệt đôi bờ cầu Hiền Lương - Bến Hải, di tích quốc gia đặc biệt địa đạo Vịnh Mốc, hệ thống làng hầm Vĩnh Linh, các điểm trải nghiệm thiên nhiên Mũi Si, mũi Trèo; vui chơi, tắm biển, thưởng thức hải sản tươi ngon; dạo bãi biển, cảng cá, chợ cá Cửa Tùng... Ngoài ra, Quảng Trị còn có nhiều tiềm năng trải nghiệm thiên nhiên và văn hóa bản địa như “Năm mùa Bungalow" tại thôn Xa Ry, xã Hướng Phùng, Hướng Hóa. Đến đây du khách sẽ đi qua những điểm di tích, danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: cầu treo Đakrông, sân bay Tà Cơn, tượng đài chiến thắng Khe Sanh, đường Hồ Chí Minh huyền thoại; các danh lam thắng cảnh như thác sông Đakrông, đèo sa Mù, cánh đồng điện gió và nhiều cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp. Cùng với "Năm mùa Bungalow", homestay Bảo Nguyên Xanh ở thôn Của (xã Hướng Tân, huyện Hướng Hóa) nhanh chóng được khách du lịch khắp mọi nơi biết đến bởi bởi phong cách trang trí độc đáo, bắt mắt của những căn nhà lưu trú màu xanh nổi bật giữa đồi núi, vườn cây, hoa trái tươi tốt, nằm cạnh cánh đồng điện gió và cộng đồng dân tộc Vân Kiều với nhiều nét văn hóa độc đáo. Cuối tháng 12-2022, Bảo Nguyên Xanh chính thức được đưa vào khai thác. Đây là mô hình nghỉ dưỡng – trải nghiệm được thiết kế với quy mô khá lớn, kết cấu các hạng mục đa dạng và khoa học với tổng diện tích gần 2 ha. Quảng Trị cũng là địa phương có một số dân tộc thiểu số cư trú, sinh sống với sự đặc sắc về văn hóa như người Bru – Vân Kiều, Paco… Quảng Trị cũng có biển Cửa Tùng, Cửa Việt nổi tiếng, có thể phát triển du lịch sinh thái – nghỉ dưỡng, trải nghiệm cho du khách.

Đến với Thừa Thiên Huế, du khách có thể trải nghiệm nhiều di sản thiên nhiên như du thuyền sông Hương, ngắm đồi Vọng Cảnh, bãi biển Lăng Cô, hòa mình vào các dòng suối trong mát như Suối Voi, Nhị Hồ; Suối Mơ; khám phá núi Bạch Mã – Hải Vân hay khám phá biển Thuận An, Tư Hiền, khu đầm phá Tam Giang – Cầu Hai… Đáng chú ý, Huế được xem là kinh đô của ẩm thực, nơi còn chứa đựng nhiều món ăn cung đình, dân giã rất độc đáo như Bún Bò Huế, Cơm hến – bún hến; Chè Huế, các loại bánh. Ở đây cũng có nhiều làng nghề thủ công truyền thống như nghề làm nón lá Huế, làng nghề đúc đồng Phường Đúc, làng gốm Phước Tích, làng nghề hoa giấy Thanh Tiên, nghề đan lát Bao La, làng nghề tranh làng Sình, làng hương Thủy Xuân… là những nơi du khách có thể tham quan, trải nghiệm. Ở vùng miền núi A Lưới, Nam Đông là nơi sinh sống của một số dân tộc thiểu số như Cơ Tu, Bru - Vân Kiều, Paco, Tà Ôi với những nét văn hóa vật thể, phi vật thể độc đáo.

 

Khu vực Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế Bộ là nơi chứa đựng nhiều giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể phong phú, đa dạng, với nhiều loại hình di sản khác nhau cũng như hàng ngàn di tích, di vật chưa được xếp hạng, công nhận. Các di sản này đã hiện hữu với nhiều cấp độ, chứa đựng nhiều giá trị, cho thấy được tiềm năng to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội địa phương ở khu vực và các địa phương có di sản. Với tiềm năng đó, ở ba địa phương này có thể khai thác, phát triển các loại hình du lịch: lịch sử - văn hóa, du lịch tâm linh, du lịch trải nghiệm, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch làng quê, du lịch MICE .

Với mật độ dày đặc các điểm đến hấp dẫn, cùng nhiều sản phẩm du lịch đa dạng như: du lịch biển, du lịch sinh thái, du lịch khám phá hang động, du lịch di sản, du lịch tâm linh… 3 tỉnh Bắc Trung Bộ là Quảng Bình - Quảng Trị - Thừa Thiên Huế là nơi hội tụ của những di sản; có một vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - du lịch giữa Việt Nam với các nước trong khu vực trên hành lang Đông – Tây, nếu biết bảo tồn và phát huy hiệu quả thì sẽ mang lại lợi ích to lớn cả về vật chất và tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội các địa phương.