Gánh vác trọng trách lịch sử trong vai trò kinh đô triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam, trong vị thế là trung tâm chính trị - văn hóa - kinh tế của cả nước, nơi hội tụ tinh hoa của cả nước, Thừa Thiên Huế trở thành nơi duy nhất hiện còn lưu giữ nhiều giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc, nghệ thuật,… Vì vậy, khi nhắc đến Huế, nổi bật và ấn tượng nhất là các giá trị lịch sử văn hóa gắn với triều Nguyễn, là kinh thành Huế, Đại Nội, Ngọ Môn, điện Thái Hòa, lăng tẩm của các vị Vua Tự Đức, Khải Định, Minh Mạng, các nhà vườn, phủ đệ của ông hoàng bà chúa, những tổ đình quốc tự như Thiên Mụ, Từ Đàm,… Không chỉ quy mô về số lượng, những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể gắn với triều Nguyễn mang nhiều giá trị biểu trưng cho linh hồn và tinh hoa văn hóa Việt Nam, là những di sản sản Quốc gia và di sản Quốc gia đặc biệt, hơn thế là di sản đại diện của nhân loại. Trong thời gian qua, Thừa Thiên Huế đã có 07 di sản văn hóa thế giới về vật thể và phi vật thể gồm quần thể di tích Cố đô, Nhã nhạc cung đình, Châu bản triều Nguyễn, Mộc bản Triều Nguyễn, Thơ văn trên kiến trúc cung đình, Tín ngưỡng thờ mẫu và Bài chòi Trung bộ. Thừa Thiên Huế có 3 di tích cấp Quốc gia đặc biệt gồm quần thể di tích Cố đô Huế, hệ thống di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Thừa Thiên Huế và hệ thống di tích đường mòn Hồ Chí Minh qua địa bàn huyện A Lưới và có đến 89 di tích cấp Quốc gia về nghệ thuật kiến trúc, lịch sử văn hóa. Đặc biệt về loại hình làng di sản, Thừa Thiên Huế có làng cổ Phước Tích là một trong 4 ngôi làng cổ Quốc gia duy nhất ở Việt Nam.
Nhã nhạc cung đình Huế - Kiệt tác di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại. Di sản Nhã nhạc Cung đình Huế là một loại hình nghệ thuật cung đình đặc sắc, là tinh hoa của triều đại phong kiến Nguyễn được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại. Nhã nhạc là nhạc cung đình có giá trị lịch sử hàng trăm năm gắn với triều đại phong kiến, gồm các thể loại ca nhạc, múa và kịch hát biểu diễn trong những nghi lễ cúng tế, triều chính và các ngày quốc lễ do triều đình tổ chức. Nhã Nhạc cung đình Huế mang giá trị tiêu biểu cho nhã nhạc cung đình Việt Nam về phương diện lịch sử lẫn nghệ thuật, phản ánh bộ mặt của một triều đại về phương diện nghi lễ và giao tế, quyền lực và nghệ thuật. Giá trị nghệ thuật của Nhã Nhạc cung đình Huế thể hiện trong cấu trúc nhạc chương, do Bộ Lễ biên soạn theo những nguyên tắc nghiêm ngặt, dành cho những buổi lễ khác nhau: Lễ tế Giao có 10 nhạc chương và mang chữ Thành thể hiện sự thành công; lễ Tế Xã Tắc có 7 nhạc chương, mang chữ Phong với ngụ ý cầu mong được mùa; lễ tế Miếu có 9 nhạc chương, mang chữ Hòa cầu mong được hòa hợp; lễ tế Lịch Đại Đế vương có 6 nhạc chương, mang chữ Văn thể hiện trí tuệ; Lễ Đại triều có 5 bài mang chữ Bình ngụ ý hòa bình; lễ Vạn thọ dùng 7 bài mang chữ Thọ với ý nghĩa trường tồn; lễ Đại yến dùng 5 bài mang chữ Phúc để thể hiện phúc lành. Giá trị của Nhã Nhạc cung đình Huế còn được thể hiện về tổ chức nhạc khí và ban nhạc gồm Nhã nhạc, Nhạc huyền (bộ nhạc treo), Đại nhạc (Cổ xúy đại nhạc), Tiểu nhạc (ti trúc tế nhạc), Ty chung và Ty khánh (dàn nhạc chuông và khánh đá) cùng Quân nhạc.
Thơ văn trên cung đình Huế - Di sản tư liệu ký ức thế giới khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Di sản thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức thế giới khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, là một hệ thống gồm 2.967 ô thơ văn chạm khắc, sơn thếp trên gỗ, 146 ô thơ văn viết tráng men pháp lam và 88 đơn vị ô hộc, câu đối, bài văn đắp ngõa sành sứ. Đây là những di sản mang giá trị tư liệu độc đáo và một kho tàng sử liệu đồ sộ, là những bản gốc, duy nhất hiện chỉ còn ở Việt Nam và có giá trị nổi bật toàn cầu về những tác phẩm nghệ thuật vô giá, chứa nhiều giá trị quý báu. Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế là một phong cách riêng trong trang trí kiến trúc cung đình, chưa thấy xuất hiện ở những nơi khác trên thế giới. Hệ thống di sản thơ văn trên kiến trúc có giá trị như một bảo tàng sống động, độc đáo về văn chương thời Nguyễn, chuyển tải những thông điệp lịch sử, văn hóa và nghệ thuật đặc sắc một giai đoạn trong lịch sử cận đại của Việt Nam.
Mộc bản triều Nguyễn: Di sản tư liệu thế giới thuộc Chương trình Ký ức Thế giới của UNESCO. Di sản mộc bản triều Nguyễn hiện có hơn 34.000 bản khắc trên gỗ về nội dung của 152 đầu sách, trên nhiều lĩnh vực, do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn trong giai đoạn 1802 - 1945, được UNESCO ghi danh là “Di sản tư liệu thế giới thuộc Chương trình ký ức thế giới”. Di sản mộc bản vừa mang giá trị tư liệu của văn bản gốc trên ván khắc, vừa thể hiện giá trị nghệ thuật khắc chữ trên gỗ, gắn với lịch sử hình thành và phát triển của nghề thủ công truyền thống khắc ván in ở Việt Nam. Giá trị tư liệu của mộc bản còn được phản ánh qua nhiều tác phẩm quý hiếm như Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, các tác phẩm Ngự chế văn, Ngự chế thi do các vị hoàng đế nổi tiếng như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức,… Giá trị tư liệu mộc bản triều Nguyễn phản ánh qua nội dung đa dạng, phản ánh mọi mặt xã hội Việt Nam dưới thời Nguyễn qua 30 bộ sách sử gồm 836 quyển, 2 bộ sách địa lý gồm 20 quyển, 5 bộ sách chính trị - xã hội gồm 16 quyển, 5 bộ sách quân sự gồm 151 quyển, 12 bộ sách về pháp chế gồm 500 quyển, 13 bộ sách về tư tưởng, triết học, tôn giáo gồm 22 quyển, 39 bộ sách văn thơ gồm 265 quyển,… Bản khắc mộc bản là khối tài liệu đặc biệt quý hiếm, có giá trị về mặt nội dung, đặc tính về phương pháp chế tác và những quy định rất nghiêm ngặt về việc ấn hành và san khắc, do Quốc sử quán thực hiện theo chỉ dụ của vua.
Châu bản triều Nguyễn - Di sản tư liệu thế giới thuộc Chương trình ký ức thế giới ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO. Di sản Châu bản triều Nguyễn được UNESCO công nhận di sản tư liệu thuộc Chương trình ký ức thế giới ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, là các văn bản hành chính được lập trong quản lý nhà nước của triều đình Nguyễn từ trung ương đến địa phương do hoàng đế ban hành. Châu bản triều Nguyễn là các bản tấu, sớ, sắc, dụ, chiếu, chỉ và các tờ truyền, sai, phó, khiển, di thuộc kho lưu trữ của triều đình Nguyễn được vua ngự lãm và ngự phê. Các hình thức Ngự phê này là một trong những đặc trưng độc đáo của Châu bản, gồm có 6 loại là châu điểm, châu phê, châu khuyên, châu mạt, châu sổ, châu cải. Trong Châu bản, văn bản lưu bút tích của hoàng đế Gia Long không nhiều, bút phê của hoàng đế Minh Mệnh, Tự Đức, Thiệu Trị rất phong phú, đầy đủ các loại châu phê, châu điểm, châu khuyên, châu mạt, châu sổ, châu cải. Cố đô Huế là nơi gắn liền sự hình thành của Châu bản, cũng là nơi có nhu cầu to lớn trong việc khai thác, phát huy giá trị của châu bản. Châu bản triều Nguyễn có giá trị lớn về khối tài liệu lưu trữ quý hiếm, nội dung phản ánh tương đối đầy đủ, toàn diện về các hoạt động chính trị, kinh tế, quân sự, xã hội, ngoại giao của xã hội Việt Nam của 13 đời vua Nguyễn.
Bên cạnh những di sản thế giới, Thừa Thiên Huế là địa phương có nhiều di sản được ghi danh vào di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia như nghề thủ công truyền thống dệt Dèng của người Tà Ôi, nghệ thuật Ca Huế, lễ hội Aza Koanh mừng lúa mới của người Pa Cô. Đặc biệt là làng cổ Phước Tích với nhiều giá trị đặc trưng, tiêu biểu về kiến trúc nghệ thuật và lịch sử văn hóa đã được công nhận là làng di sản Quốc gia.
Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia - Dệt Dèng của dân tộc Tà Ôi. Di sản nghề thủ công dệt Dèng của dân tộc Tà Ôi ở huyện A Lưới được ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia về loại hình nghề thủ công truyền thống đặc sắc và độc đáo, có khung dệt được đánh giá là cổ xưa nhất hiện còn được lưu truyền. Dệt Dèng có hệ thống sản phẩm độc đáo, mang nhiều giá trị, vừa là vật dụng, bảo đảm nhu cầu sinh hoạt, vừa là tác phẩm nghệ thuật thể hiện nét văn hóa đặc trưng. Giá trị kinh tế được phản ánh qua trị giá sử dụng làm quà thách cưới, của hồi môn, quà tặng người thân, là nguồn hàng hóa trao đổi của quan hệ kinh tế tự cung tự cấp. Dèng còn là sản phẩm mang giá trị tâm linh, được sử dụng làm lễ vật tế thần trong các nghi lễ quan trọng, dùng để trang trí bàn thờ, là tài sản chôn theo khi người thân mất đi. Nghề dệt Dèng truyền thống không chỉ có vai trò kinh tế mà còn là giá trị làm nên bản sắc văn hóa, là tiêu chí để phân biệt giữa các cộng đồng với nhau. Giá trị văn hóa nghệ thuật của Dèng thể hiện qua sự sáng tạo của người thợ trong kỹ thuật dệt và kết cườm, phối màu tạo nên hệ hoa văn độc đáo, mang nhiều ý nghĩa phản ánh quan niệm về thế giới quan, nhân sinh quan. Ngoài ra, Dèng còn phản ánh giá trị xã hội qua sự phân công lao động và vai trò của người phụ nữ đối với việc tạo nên các sản phẩm, vừa thể hiện tài năng, vừa là chuẩn đánh giá phẩm chất người phụ nữ trong xã hội truyền thống.
Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia - Lễ hội Aza Koonh của người Pa cô. Di sản lễ hội Aza Koonh của người Pa Cô ở huyện A Lưới được ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia về loại hình lễ hội nông nghiệp truyền thống của cư dân canh tác lúa rẫy ở vùng miền núi, mang ý nghĩa mừng được mùa, tạ ơn thần linh, trời đất. Lễ hội Aza Koonh được tổ chức quy mô cộng đồng, khác với lễ Aza Kăn được tổ chức ở quy mô gia đình cũng với mục đích tạ ơn thần lúa và các vị thần trong thiên nhiên đã phù hộ cho vụ mùa bội thu. Giá trị của lễ hội phản ánh trong quan niệm của người Pa cô về cây lúa có vai trò quan trọng bậc nhất về mặt vật chất cũng như tín ngưỡng. Lễ nghi đối với cây lúa bao trùm lên các lễ tế nông nghiệp của người Pa Cô, rõ nét và đầy đủ nhất là trong lễ Aza Koonh, thể hiện quan niệm “Cây lúa - Bà Mẹ lúa - Thần lúa - Sự ấm no”. Đây chính là một trong những yếu tố tạo nên đặc trưng văn hóa của lễ hội, là một nét đẹp thể hiện tính nhân văn giữa con người với các thế lực siêu nhiên đã bảo hộ cho dân làng. Với quy mô lớn và mang ý nghĩa cộng đồng, lễ hội Aza Koonh đã trở thành tết cổ truyền của người Pa Cô mang nhiều ý nghĩa hướng đến cuộc sống bình an, dân làng mạnh khỏe, đoàn kết, hòa thuận. Lễ hội Aza koonh thể hiện sự cộng cảm trong không khí vui vẻ, là dịp vui chơi giải trí sau một vụ mùa nhiều lo lắng, cùng nhau ca, hát, ăn uống thắt chặt tình đoàn kết bản làng, giữa con người với núi rừng. Giá trị nghệ thuật của lễ hội Aza Koanh còn được phản ánh qua nghệ thuật diễn xướng dân gian, các hoạt động dân ca, dân nhạc, dân vũ phong phú và đặc sắc.
Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia - Ca Huế. Di sản Ca Huế được ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia về loại hình diễn xướng dân gian, là loại hình âm nhạc mang sắc thái địa phương tên gọi đến hình thức, nội dung trình diễn. Giá trị nghệ thuật của ca Huế được thể hiện ở chất giọng, các làn điệu và phần phụ họa của nhạc khí tạo nên nét đặc trưng riêng, với các bài ca điển hình như Hành vân, Lưu thủy hay Tứ đại cảnh,… và hệ thống nhạc cụ (đàn nguyệt, đàn tỳ bà, đàn tranh, đàn tam thập lục, đàn nhị và phách (sinh tiền). Ca Huế là một thể loại nhạc hát mang nhiều yếu tố chuyên nghiệp "trí thức" về cấu trúc và phong cách biểu diễn, có nội dung âm nhạc chịu ảnh hưởng của hò, lý dân gian. Giá trị đặc trưng của Ca Huế là được làm nên từ sự kết hợp hài hòa giữa dân gian và cung đình trong nội dung và hình thức, ca từ và làn điệu, đáp ứng được nhu cầu thẩm mỹ của giới quí tộc phong lưu cũng như nhu cầu thưởng thức của dân chúng.
Làng xã ở Thừa Thiên Huế có lịch sử hình thành lâu đời, gắn với quá trình mở rộng cương thổ về phía Nam của các triều đại phong kiến Việt Nam. Trong hành trình đó, mỗi ngôi đình ra đời là biểu tượng cho sự ổn định và hưng thịnh không chỉ của làng xã mà cả Quốc gia. Đình làng nơi thờ cúng tổ tiên, dòng họ, nơi thực hành và lưu truyền các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần, và cũng là thể hiện những tinh hoa nghệ thuật kiến trúc của cha ông. Trong hệ thống di sản Quốc gia, đình làng Thừa Thiên Huế với những đặc trưng của kiến trúc thời Nguyễn, góp phần tôn vinh những giá trị nổi bật về văn hóa lịch sử và kiến trúc nghệ thuật dân gian, tiêu biểu như đình Thế Lại Thượng, đình Phú Xuân, đình Lại Thế, đình Quy Lai, đình Dạ Lê, đình Văn Xá, đình Thủ Lễ, đình An Truyền, đình Mỹ Lợi, đình và chùa làng Thủy Dương,…
Ở thành phố Huế có di tích đình Dạ Lê, đình Thế Lại Thượng, Phú Xuân. Di tích đình Phú Xuân xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ XV, là kiến trúc dân gian độc đáo, duy nhất có trong Kinh thành, gắn với địa danh lịch sử kinh đô Phú Xuân. Trong kháng chiến, đình Dạ Lê là nơi tổ chức nhiều hoạt động đấu tranh yêu nước, phong trào giải phóng dân tộc. Cụm di tích đình và miếu khai canh làng Thế Lại Thượng có giá trị lịch sử và kiến trúc gắn với ngôi làng cổ ra đời cách đây trên 500 năm, gắn với tên tuổi và vai trò của các ngài khai canh khai khẩn. Ở thị xã Hương Thủy có đình làng Thủy Dương, Vân Thê, Dạ Lê mang giá trị lịch sử văn hóa tiêu biểu. Cụm di tích kiến trúc nghệ thuật đình và chùa làng Thuỷ Dương phản ánh những giá trị đặc trưng của lịch sử và văn hoá làng xã vùng Thừa Thiên Huế. Di tích đình làng Vân Thê thuộc xã Thuỷ Thanh, trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đình làng Vân Thê đã trở thành cái nôi cách mạng của huyện Hương Thuỷ. Ở huyện Phú Vang có các đình làng Quy Lai, Mỹ Lợi, An Truyền gắn với các ngôi làng cổ ở Thừa Thiên Huế, mang những giá trị nghệ thuật tiêu biểu thuộc dòng kiến trúc dân gian Nguyễn, được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ XIX, đến nay đã trải qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa. Ở Hương Trà có đình làng Văn Xá là di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia, được xây dựng vào năm Ất Sửu (1865) dưới thời Tự Đức, được đánh giá là một trong số ít những ngôi đình bề thế và có giá trị kiến trúc tiêu biểu ở Thừa Thiên Huế. Ở Quảng Điền có đình làng Thủ Lễ là di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia, gắn với ngôi làng được thành lập khá sớm ở xứ Thuận Hóa.
Di tích kiến trúc nghệ thuật và thắng cảnh Quốc gia chùa Thiên Mụ là ngôi quốc tự có lịch sử lâu đời ở xứ Thuận Hóa nói riêng và Đàng Trong nói chung. Chùa Thiên Mụ là ngôi quốc tự lớn nhất dưới thời chúa Nguyễn và triều Nguyễn, đang lưu giữ nhiều bảo vật độc đáo, xứng đáng là một danh lam của Việt Nam. Thắng cảnh chùa Thiên Mụ được xem “là cảnh đẹp bậc nhất của thiền lâm ở chốn Nam Hà” (Phan Huy Ích). Giá trị của lịch sử chùa Thiên Mụ gắn với quá trình chúa Tiên Nguyễn Hoàng thiết lập vương triều ở Đàng Trong, giữ vị thế một ngôi chùa làm nơi tụ linh khí, mở đầu cho cơ nghiệp các chúa Nguyễn. Trải qua thời gian, trở thành một điểm di tích lịch văn hóa tâm linh gắn với du lịch bậc nhất ở cố đô Huế cũng như miền Trung.
Di tích chùa Giác Lương ở Phòng Điền, do bà Hoàng Thị Phiếu và tộc trưởng các họ trong làng Hiền Lương xây dựng vào thời Lê Trung Hưng. Trong chùa không chỉ thờ tượng Phật, thờ thánh Quan Công, Quan Bình, Châu Xương mà còn phối thờ 12 vị thủy tổ các họ đã có công khai lập làng. Chùa lưu giữ một di vật quý là đại hồng chung đúc năm 1819. Di tích chùa Thánh Duyên nằm ở núi Túy Vân huyện Phú Lộc, là một trong những danh lam cổ tự bấc nhất xứ thần Kinh, được xây dựng từ thời chúa Nguyễn Phúc Chu. Chùa ở nơi cảnh đẹp núi Thúy Vân, là thắng tích Thánh Duyên Tự được vua Thiệu Trị xếp vào “Hai mươi cảnh đẹp của đất Thần Kinh”. Giá trị lịch sử của chùa gắn với nhiều đời vua Nguyễn, các danh tăng về trú trì, có bia đá khắc các bài thơ của vua Minh Mạng ngự chế về núi Thúy Hoa và chùa Thánh Duyên, giữa điện thờ chính là long vị bằng đồng đúc dòng chữ “Đương kim Minh Mạng Hoàng đế vạn thọ vô cương”.
Hệ thống di tích lịch sử cấp Quốc gia về các danh nhân ở Thừa Thiên Huế chủ yếu là các công trình kiến trúc lăng mộ, nhà thờ, phủ thờ, miếu thờ mang giá trị lịch sử gắn với cuộc đời và sự nghiệp của các nhân vật tiêu biểu qua các thời kỳ như Nguyễn Khoa Chiêm (1659-1736), Nguyễn Khoa Đăng (1690-1725), Nguyễn Cư Trinh (1716-1767), Trần Văn Kỷ (?-1801), Diên Khánh Vương (1799-1854), Nguyễn Tri Phương (1800-1873), Đặng Huy Trứ (1825-1874), Trần Thúc Nhẫn (?-1883), Đặng Hữu Phổ (1854-1885), Nguyễn Lộ Trạch (1853-1895), Tuy Lý Vương (1820-1897), Tôn Thất Thuyết (1839-1913), Thái Phiên và Trần Cao Vân (?-1916), Phan Bội Châu (1867-1940); nhà lưu niệm đồng chí Nguyễn Chí Diểu (1908-1939), khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (1914-1967); đặc biệt là hệ thống các điểm di tích, nhà lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Di tích lịch sử Quốc gia: Lăng mộ và nhà thờ các danh tướng
Di tích lịch sử Quốc gia lăng mộ và nhà thờ Nguyễn Khoa mang những giá trị về nghệ thuật kiến trúc và lưu niệm danh nhân Nguyễn Khoa Chiêm bậc “Khai quốc công thần triều Chúa Nguyễn” và Nguyễn Khoa Đăng. Người cha Nguyễn Khoa Chiêm, ngoài sự nghiệp chính trị lẫy lừng, ông còn để lại cho văn học Việt Nam tác phẩm nổi tiếng “Nam triều công nghiệp diễn chí” nói về quá trình khai thác xứ Đàng Trong của các chúa Nguyễn. Người con Nguyễn Khoa Đăng có tài mưu lược, trung thực và đức độ, có công dẹp cướp ở truông nhà Hồ và sóng dữ ở phá Tam Giang. Di tích lăng mộ Nguyễn Cư Trinh mang giá trị tưởng nhớ và tôn vinh nhà kinh tế, quân sự, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng ở thế kỷ XVIII của xứ Đàng Trong, được vua Minh Mạng truy tặng “Khai quốc công thần” và tòng tự ở Thái Miếu. Nguyễn Cư Trinh là người có công mở mang đất đai, tổ chức cơ cấu hành chính phù hợp với tình hình mới, bài trừ tệ nạn trộm cướp, giúp đỡ và khuyến khích nhân dân mở đất, tích cực sản xuất, ổn định đời sống, giữ vững kỷ cương xã hội. Di tích lăng mộ Trần Văn Kỷ mang ý nghĩa lưu danh và tưởng nhớ một danh sỹ kiệt xuất dưới triều đại Tây Sơn, có nhiều công lao giúp trị vì đất nước và tổ chức bộ máy cai trị ở Đàng ngoài. Di tích lăng mộ và nhà thờ Nguyễn Tri Phương mang ý nghĩa tri ân và tôn thờ một vị đại thần nhà Nguyễn có nhiều công lớn trong việc khai khẩn xứ Nam Kỳ và đánh thực dân Pháp xâm lược. Di tích lăng mộ và nhà thờ Đặng Huy Trứ mang ý nghĩa tôn thờ và lưu danh một nhà cải cách Việt Nam thời cận đại, một người yêu nước mang tư tưởng canh tân, ngoài ra ông còn là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng của văn học nước nhà, là vị thủy tổ của ngành nhiếp ảnh Việt Nam. Di tích lăng mộ Trần Thúc Nhẫn gắn với một danh sĩ đời Tự Đức được xưng tụng là bậc tiết nghĩa, tên tuổi ông gắn với trận chiến ở cửa biển Thuận An, là tấm gương cho khí phách chiến đấu ngoan cường và lòng quả cảm của vị đại thần yêu nước trong những ngày đầu chống thực dân Pháp xâm lược. Di tích phủ thờ và lăng mộ nhà thơ Tuy Lý Vương mang ý nghĩa lưu danh “ông hoàng thơ ca” với nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng như Vĩ Dạ hợp tập, Vĩ Dạ văn tập, Vĩ Dạ thi tập, Nam cầm khúc,… Di tích lăng mộ Nguyễn Lộ Trạch là vị đại quan dưới triều Vua Tự Ðức, một người có tư tưởng canh tân đất nước, thể hiện qua ba tác phẩm nổi tiếng "Thời vụ sách thượng" "Thời vụ sách hạ" và "Thiên hạ đại thế luận". Di tích phủ thờ Tôn Thất Thuyết một vị quan phụ chính đại thần, nhiếp chính dưới 4 triều vua Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc và Hàm Nghi. Ông là người mang tư tưởng “chủ chiến”, có công lớn trong việc hộ giá vua Hàm Nghi phát động phong trào Cần Vương chống Pháp, được sử sách ca ngợi là "Toàn gia ái quốc". Di tích ngôi mộ chung của chí sĩ Thái Phiên và Trần Cao Vân gắn với tên tuổi của những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Duy Tân tháng 5-1916. Cụm di tích về Phan Bội Châu gồm lăng mộ, nhà thờ, từ đường, nghĩa địa, không chỉ mang ý nghĩa tôn thờ và tri ân nhà yêu nước, nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn nổi tiếng của Việt Nam đầu thế kỷ XX, mà còn phản ánh về thân thế, sự nghiệp của chí sĩ yêu nước và các chiến sĩ cộng sản như Nguyễn Chí Diểu, nữ sử Đạm Phương, Hải Triều, Lê Tự Nhiên, Thanh Hải,… Di tích gắn với danh nhân thời hiện đại ở Thừa Thiên Huế tiêu biểu là khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh ở thôn Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền. Đây là nơi trưng bày những hiện vật, di vật tiêu biểu về cuộc đời và hoạt động cách mạng của đồng chí Nguyễn Chí Thanh. Khu di tích lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh trở thành một công trình văn hoá cho nhân dân địa phương và du khách tham quan, tìm hiểu.
Mỗi di tích hiện diện đều gắn với tên tuổi của những bậc hiền tài có công trạng to lớn đối với Quốc gia dân tộc, ngoài những giá trị lịch sử và văn hóa, nơi đây còn là điểm diễn ra các hoạt động tưởng nhớ, tri ân, mang ý nghĩa giáo dục truyên thống cho các thế hệ con cháu học tập, noi theo.
Di tích lịch sử Quốc gia nhà thờ và lăng mộ tổ nghề thủ công
Di tích lịch sử Quốc gia Thanh Bình từ đường được xây dựng năm Minh Mạng thứ 5 (1825), nơi thờ Thánh Sư, Tiên Sư, Tổ Sư và những người có công trạng đối với nghệ thuật sân khấu Tuồng ở Huế và khu vực miền Trung. Di tích chứa đựng nhiều giá trị lịch sử qua các hiện vật lưu giữ như bia đá xây dựng từ đường, bức hoành phi “Thanh Bình Từ Đường” năm Tự Đức thứ 6 (1853), gia phả từ đường, sắc phong của triều Minh Mạng. Giá trị của di tích gắn với nghệ thuật tuồng nói chung và tuồng Huế nói riêng trải thời kỳ phát triển rực rỡ dưới triều đại các vua nhà Nguyễn, từng tham gia biểu diễn trong Duyệt Thị đường, Tĩnh Quang viện, Thông Minh đường, Khiêm Minh đường,... Từ sau thời Tự Đức, tuồng Huế dần vượt ra khỏi cung đình và trở thành sân khấu của quần chúng bình dân, gắn với những rạp hát nổi tiếng như Bắc Hòa, Nam Hòa, Đồng Xuân Lâu, Kim Long, An Cựu, Vĩ Dạ, Bao Vinh,...
Di tích lịch sử Quốc gia nhà thờ và lăng mộ ông tổ nghề đúc đồng mang giá trị lich sử và văn hóa gắn với sự ra đời và phát triển của nghề thủ công đúc đồng ở kinh đô Huế. Nghề thủ công đúc đồng có mặt ở Huế từ rất sớm, gắn với chủ trương phát triển công thương nghiệp của chúa Nguyễn, thành lập hai đội tả súng, hữu súng, hai ty thợ đúc, tạo cơ sở để ngành đúc đồng phát triển. Ở phường Đúc, Kinh Nhơn và Bổn Bộ là hai làng nghề đúc đồng lớn nhất và có danh tiếng của làng Dương Xuân, nơi hiện có lăng mộ và nhà thờ tổ đúc đồng. Di tích tuy có kiến trúc đơn giản nhưng chứa đựng nhiều giá trị về lịch sử ngành nghề nổi tiếng của Huế, nhiều sản phẩm đặc sắc, tinh xảo, trở thành những kiệt tác di sản văn hóa Huế như: Vạc đồng Đại Nội, chuông chùa Thiên Mụ, Cửu Đỉnh ở Thế Miếu, Cửu Vị Thần Công trước Ngọ Môn, chuông chùa Diệu Đế và rất nhiều các vật dụng thờ cúng dùng các nghi lễ triều đình và trong dân gian.
Di tích lịch sử Quốc gia nhà thờ và khu lăng mộ tổ nghề kim hoàn mang giá trị lịch sử về quá trình hình thành, phát triển của nghề không chỉ ở Huế mà cả miền Trung, gắn với tên tuổi 2 vị tổ nghề là cha con ông Cao Đình Độ và Cao Đình Hương. Năm 1783, cha con ông mang nghề kim hoàn vào lập nghiệp tại làng Kế Môn, năm 1790, được vua Quang Trung triệu vào cung thành lập cơ vệ ngân tượng sản xuất đồ ngự dụng bằng vàng bạc. Di tích nhà thờ và khu lăng mộ Cao Đình Độ và Cao Đình Hương tuy đơn giản nhưng có giá trị lịch sử quan trọng đối với sự ra đời và phát triển của nghề kim hoàn. Di tích mang ý nghĩa là nơi ghi dấu, tưởng nhớ và tôn vinh hai vị Tổ sư đã có công tạo dựng và phát triển nghề thủ công nơi kinh kỳ và mở rộng ra khắp các làng quê Trung bộ. Hoạt động tế tổ hàng năm được tiến hành tại từ đường vào ngày 27/2 âm lịch giỗ Đệ nhất Thế tổ Cao Đình Độ, ngày 7/2 âm lịch giỗ Đệ nhị Thế tổ Cao Đình Hương, ngày 6/1 là ngày “Minh niên” mở hàng năm mới của những người làm nghề Kim hoàn không chỉ mang ý nghĩa tri ân bậc khai nghề mà còn góp phần lưu giữ các giá trị đạo đức “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta.
Di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt: Hệ thống di tích, nhà lưu niệm và bảo tàng Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trong hệ thống các di tích lịch sử - văn hóa gắn với danh nhân thời kỳ cận hiện đại, Thừa Thiên Huế là nơi lưu giữ nhiều di tích đặc biệt quý hiếm về thời niên thiếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thừa Thiên Huế là mảnh đất đã nuôi dưỡng tuổi thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những năm tháng cùng gia đình sinh sống, học tập và tham gia các hoạt động yêu nước trong giai đoạn 1895 -1901 và 1906 - 1909. Ở Thừa Thiên Huế hiện có khoảng 20 di tích và địa điểm lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh và gia đình. Tiêu biểu như di tích nhà lưu niệm Bác Hồ ở đường Mai Thúc Loan, địa điểm Trường Quốc Học Huế và nhà lưu niệm thời niên thiếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở làng Dương Nỗ được công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc gia đặc biệt. Những di tích và di vật nơi đây mang giá trị hun đúc và hình thành tư tưởng yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh để từ đó thôi thúc Người quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Những di sản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và gia đình để lại trên mảnh đất Thừa Thiên Huế là niềm tự hào và là tài sản vô giá cho mảnh đất và con người xứ Huế. Di tích nhà lưu niệm ở đường Mai Thúc Loan không chỉ có giá trị lịch sử gắn với sự trưởng thành của hai anh em Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung, mà còn mang ý nghĩa giáo dục về tinh thần hiếu học, miệt mài đèn sách của ông Nguyễn Sinh Sắc, về đức tính trung hậu, đảm đang của bà Hoàng Thị Loan. Di tích ở làng Dương Nổ, ngôi nhà cùng với đình làng, Am Bà, bến Đá,… giúp chúng ta hiểu hơn về cuộc sống của Người và gia đình ở làng quê Thừa Thiên Huế những năm cuối thế kỷ XIX, hiểu hơn về giáo dục gia đình qua hình ảnh người cha cũng là người thầy của Bác tạo nền móng vững chãi cho con cái. Đặc biệt, di tích Trường Quốc học Huế nơi đã góp phần bồi đắp, mở mang tri thức cho người, tạo nên một nhân cách lớn, một vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc. Tại đây, Người đã tham gia hoạt động sôi nổi trong phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX, góp phần thúc đẩy ý chí đấu tranh cách mạng cho các tầng lớp thanh niên Việt Nam.
Hệ thống các di tích lịch sử cấp Quốc gia gắn với các sự kiện lịch sử thời cận hiện đại ở Thừa Thiên Huế gồm có: Cơ quan Xứ ủy Trung Kỳ (1938-1939), địa đạo Khu uỷ Trị Thiên Huế, núi Bân, Trường Quốc Học, trường Kỹ nghệ Thực hành (trường Cao Đẳng công nghiệp Huế), đoạn cuối đường 71, ngã Ba Ràng Bò, bến Cây đa Đá Bạc, mũi Né, địa đạo Bạch Mã, ngã Ba đầu đường 72 và địa điểm Bốt Đỏ, ngã Ba đầu đường 73 đường 14B, ngã Ba đầu đường 74 đường 14B, dốc Con Mèo, ngã Ba đầu đường 71 đường 14B, Km0 đường B45A, động Tiên Công, Chỉ huy Sở Binh tạm 42 tại Địa đạo thôn A Lê Ninh (Địa đạo Động So - A Túc), địa điểm chứng tích chiến tranh hóa học sân bay A So, địa điểm chiến thắng sân bay đồi A Bia, đình làng Hòa Phong, đình làng Vân Thê, đình làng Bàn Môn,…
Di tích lịch sử Quốc gia địa đạo động So - A Túc và địa đạo Khu ủy Trị Thiên là các di tích tiêu biểu về loại hình địa đạo trong kháng chiến chống Mỹ. Di tích địa đạo động So - A Túc được thiết kế theo hình chữ U, làm hầm chứa vũ khí, quân trang, quân dụng để chuẩn bị sức người, sức của, chi viện kịp thời cho các chiến trường theo chủ trương của quân uỷ Trung ương. Giá trị lịch sử của di tích địa đạo gắn với vai trò quan trọng trong các chiến dịch đánh Mỹ, đặc biệt là trong cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968. Di tích địa đạo Khu ủy Trị Thiên Huế được xây dựng năm 1967, có vai trò quan trọng trong hiện thực hóa chủ trương của Tỉnh uỷ Thừa Thiên về xây dựng các căn cứ địa cách mạng ở khu vực giáp ranh, phá thế kìm kẹp, phát triển cơ sở cách mạng trong lòng địch, tạo điều kiện cho các hoạt động quân sự, chính trị mở rộng vùng giải phóng. Địa đạo là cơ quan đầu não của Khu uỷ Trị Thiên và Thành uỷ Huế chỉ đạo mọi hoạt động của lực lượng quân giải phóng trước và sau cuộc tấn công mùa xuân năm 1968. Địa đạo khu uỷ Trị Thiên là bằng chứng hùng hồn về sức mạnh, thế trận chiến tranh nhân dân, sự phát huy cao độ sức mạnh của ba thứ quân, trên cả ba vùng chiến lược, góp phần làm giàu cho kho tàng lý luận quân sự Việt Nam và nghệ thuật chiến tranh nhân dân của quân đội ta.
Di tích lịch sử Quốc gia đình Bàn Môn ở xã Lộc An (Phú Lộc) và đình Hòa An ở xã Thủy Tân (Hương Thủy) là những di tích tiêu biểu về loại hình di tích đình làng kháng chiến. Trài qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đình làng là nơi trú quân của bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương. Giá trị lịch sử của di tích đình Bàn Môn phản ánh qua hoạt động của Chi bộ cộng sản Truồi tại nơi đây, lãnh đạo và tổ chức thành lập Hương hội thời kỳ 1936 - 1939. Năm 1942, đình Bàn Môn là nơi đồng chí Nguyễn Chí Thanh sử dụng làm cơ sở hoạt động, thành lập Mặt trận Việt Minh chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa, làm địa điểm tập trung huấn luyện tự vệ chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng 8-1945. Sau năm 1945, đình Bàn Môn là trụ sở của Mặt trận Việt Minh và UBND cách mạng xã Đại Thành (nay là xã Lộc An), tổ chức phát động phong trào “hũ gạo cứu đói”, “hũ gạo nuôi quân”, “Tuần lễ đồng”, “Tuần lễ vàng”, bầu cử Quốc hội,… Đặc biệt, quê hương Bàn Môn là nơi đã sinh ra người con ưu tú của Đảng, vị Đại tướng của quân đội Việt Nam, Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Giá trị lịch sử của đình làng Hòa Phong gắn với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, là nơi tổ chức “Tuần lễ đồng”, “Tuần lễ vàng”. Qua các thời kỳ, đình làng Hòa Phong là nơi làm việc của các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy, trong đó có đồng chí Nguyễn Chí Thanh - Bí thư Khu ủy Bình Trị Thiên.
Khu di tích lịch sử Quốc gia Chín Hầm ở núi Thiên Thai là loại hình khu chứng tích lịch sử. Khu Chín Hầm trước đây là kho chứa vũ khí do thực dân Pháp xây dựng năm 1941. Trong kháng chiến chống Mỹ, Ngô Đình Cẩn đã cải tạo Chín Hầm làm chỗ giam cầm, tra tấn các chiến sĩ cách mạng và những người yêu nước. Ngục Chín Hầm là chứng tích lịch sử tố cáo tội ác gia đình họ Ngô đã gây ra đối với đồng bào ta, nhưng đồng thời cũng là minh chứng cho ý chí cách mạng và tinh thần yêu nước bất khuất của các chiến sĩ cộng sản trung kiên.