Giá trị về lịch sử, văn hóa và giáo dục truyền thống của hệ thống di tích lịch sử, di sản văn hóa ở tỉnh Quảng Trị

Các cộng đồng cư dân ở Quảng Trị trong lịch sử hình thành và phát triển đã sáng tạo nên nhiều loại hình văn hóa vật thể và phi vật thể phong phú và đa dạng, tiêu biểu về lĩnh vực kiến trúc, trang phục, ẩm thực, phong tục tập quán, lễ hội, nghề thủ công, diễn xướng dân gian,... đã và đang được lưu giữ, trao truyền, góp phần hình thành nên bản sắc văn hoá riêng của vùng đất và con người Quảng Trị. Các di sản văn hóa tiêu biểu của Quảng Trị được công nhận là di tích cấp Quốc gia, di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia, gồm hệ thống công trình khai thác nước cổ Gio An, Nghĩa An, kiến trúc nghệ thuật đình làng Nghĩa An, Câu Nhi, Hà Thượng, chùa Sắc Tứ, chùa Bảo Đông; về loại hình diễn xướng dân gian có Hò giã gạo, Bài chòi,…

Hệ thống di tích giếng cổ

Hệ thống di tích giếng cổ tiêu biểu ở Quảng Trị có “Hệ thống công trình khai thác nước cổ Do An” và “Hệ thống giếng Chăm ở Nghĩa An” được công nhận di tích cấp Quốc gia. “Hệ thống công trình khai thác nước cổ Do An” trải rộng trên địa phận các làng An Nha, An Hướng, Hảo Sơn, Long Sơn, Thanh Khê, Tân Văn của xã Do An, huyện Do Linh là một di sản văn hóa mang giá trị phản ánh về một nền văn minh nông nghiệp cổ. “Hệ thống giếng Chăm Nghĩa An” ở phường Đông Thanh, thành phố Đông Hà gồm có hai loại: Loại giếng đơn xây dựng bằng kỹ thuật đào sâu trong lòng đất để khai thác mạch nước ngầm, có cấu trúc theo kiểu giếng khơi, xếp, kè đá thành hình dạng vuông hoặc tròn, dùng lấy nước cho sinh hoạt; Loại giếng cổ giống với công trình khai thác nước cổ An Mỹ ở xã Do Mỹ, có cấu trúc điển hình của công trình khai thác nước mang tính chất “dẫn thủy nhập điền” trên các địa hình đồi cát, đụn cát ở vùng Quảng Trị.

Đây là một hệ thống công trình “dẫn thủy”, khai thác nước cổ xưa bằng kỹ thuật xếp đá tạo thành giếng, bể chứa nước và dẫn nước, phục vụ đắc lực cho sinh hoạt và sản xuất của con người từ lâu đời đến nay. Hệ thống công trình khai thác nước cổ ở Do An là một thành tựu văn hóa độc đáo, được đánh giá là di tích có nhiều giá trị tiêu biểu về mặt lịch sử, nghệ thuật kiến trúc và vai trò kinh tế, dân sinh. Giá trị lịch sử được thể hiện qua niên đại hình thành rất sớm, vào thời đại đá mới, sơ kỳ kim khí, trải qua nhiều giai đoạn xây dựng, nâng cấp, hoàn thiện và sử dụng đến ngày nay. Giá trị kinh tế, dân sinh được phản ánh qua việc sử dụng hệ thống giếng cổ để khai thác nguồn nước ngầm phục vụ đời sống sinh hoạt và canh tác của cư dân vùng đất đồi bazan phía tây huyện Do Linh. Giá trị văn hóa dân gian cũng được phản ánh qua hệ thống tên gọi thuần Việt gắn với các đặc điểm của hệ thống giếng cổ, đã biến giếng đá thành những di sản có hồn, mang các giá trị nhân văn.

Hệ thống di tích đình làng, chùa

Hệ thống di tích đình, chùa làng mang giá trị lịch sử - văn hóa tiêu biểu ở Quảng Trị có đình làng Nghĩa An, đình làng Câu Nhi, đình làng Hà Thượng, chùa Sắc Tứ, chùa Bảo Đông,… Di tích đình làng Nghĩa An thuộc phường Đông Thanh, thành phố Đông Hà là một trong những ngôi đình làng phản ánh đặc trưng nghệ thuật kiến trúc thế kỷ XVI - XVII. Đình thờ Thành hoàng là một vị nhiên thần - thần mặt trăng và Bách thần sở hội gồm nhiều vị thần. Các phong tục lễ hội của làng diễn ra tại đình vào hai kỳ xuân - thu, phản ảnh quan niệm thờ cúng của làng xã nông nghiệp, có các trò diễn như đi cầu Ngô, bơi chải, đua thuyền, kéo co bằng tre,... Ðình làng Nghĩa An mang giá trị của một không gian văn hóa thể hiện đầy đủ và sinh động quan niệm về nhân sinh và vũ trụ quan của người nông dân làng xã Quảng Trị.

Đình làng Câu Nhi là một trong những di tích tiêu biểu của Quảng Trị nói chung và Hải Lăng nói riêng về giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật. Đình làng Câu Nhi xưa có tên là Câu Lãm, một làng văn vật, nơi sản sinh ra nhiều nhân tài. Trong khu vực đình có một công trình kiến trúc đáng chú ý là Văn Thánh thờ Khổng Tử và những người đổ đạt của làng và ngôi miếu thờ thượng thư Bộ Lễ Bùi Dục Tài mang ý nghĩa về truyền thống giáo dục. Giá trị của di tích được gắn liền với tên tuổi của danh nhân Bùi Dục Tài, người được coi là tiến sĩ khai khoa của xứ Đàng Trong, người làm rạng danh truyền thống học hành, khoa cử của làng Câu Nhi và của Quảng Trị. Sự kiện Bùi Dục Tài đỗ Tiến sĩ khoa thi năm Nhâm Tuất, niên hiệu Cảnh Thống thứ 5 (1502) khi mới 25 tuổi không chỉ làm nức lòng người dân vùng Thuận Hóa khi lần đầu tiên một nho sinh Ðàng trong trở thành một vị đại khoa, được khắc tên vào bảng vàng bia đá tại Văn miếu Quốc tử giám, mà có ý nghĩa giáo dục về niềm tự hào và truyền thống học hành cho con em các thế hệ sau.

Đình làng Hà Thượng nằm ở thị trấn Gio Linh, huyện Gio Linh có tòa đại đình và 4 ngôi miếu thờ Thành Hoàng, thờ ông Lê Hiếu người có công lớn trong việc bảo vệ sổ bộ của làng và hai vị khai khẩn họ Lê, họ Nguyễn. Đình Hà Thượng được xme là công trình đình làng cổ nhất còn tồn tại đến tận ngày nay, mang giá trị phản ánh kiến trúc khá đặc trưng và điển hình của vùng Trung Trung bộ thế kỷ XVII. Đình Hà Thượng nằm trong tổng thể bố cục gắn với chợ Cầu, tạo nên không gian sinh hoạt lễ hội của đình - chợ làng khá điển hình, hàng năm vào tháng 6 âm lịch, dân làng nhiều nơi trong vùng tập trung dự ngày hội làng “Cảnh quân” lễ tế lục nguyệt.

Di tích chùa Sắc Tứ ở thị trấn Ái Tử, huyện Triệu Phong, lập vào khoảng đời Lê (1735 - 1739 với tên gọi là Am Tịnh Ðộ, sau được chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát thân hành ngự bút “Sắc Tứ Tịnh Quang Tự” (Tổ Ðình Sắc Tứ Tịnh Quang). Di tích mang nhiều giá trị lịch sử văn hóa gắn với quá trình hình thành và phát triển Phật Giáo ở Quảng Trị, của một trong số ít những ngôi Tổ đình được nhà nước sắc phong (Sắc Tứ), mang tầm vóc của một ngôi cổ tự từng nổi tiếng một thời, khẳng định tầm quan trọng của mình trong lịch sử vùng đất có bề dày lịch sử văn hóa.

Di tích chùa Bảo Đông và khu lăng mộ Trần Đình Ân (1625-1706) ở làng Hà Trung, là một trong những làng cổ được hình thành vào đầu thế kỷ XV dưới thời vua Lê Thánh Tông, gắn liền với danh tiếng dòng họ Trần có nhiều đời nối tiếp nhau làm quan triều Nguyễn, có nhiều đóng góp trong việc mở cõi xứ Đàng Trong. Giá trị lịch sử còn được phản ánh qua các dấu tích về một khu đền tháp Chămpa của những bộ phận kiến trúc lớn bằng sa thạch chạm khắc hoa văn dây leo, cành lá ở một hoặc hai mặt, mang phong cách nghệ thuật Ðồng Dương (thế kỷ X), hai chiếc bệ và hai bệ Yoni. Năm 1703, Tham chánh Trần Ðình Ân sau khi từ chức về làng đã xây dựng một ngôi chùa ở trung tâm khu đền tháp lấy tên Bình Trung, xây nhà bia, dựng bia đá chép lại bài thơ và bài tự chúa Nguyễn Phúc Chu đề tặng. Phía đông chùa Bão Ðông và nhà bia là lăng mộ Trần Ðình Ân, mang giá trị lưu dấu và ngưỡng vọng về một vị danh nhân của đất Quảng Trị và Ðàng trong. Khu di tích chùa Bão Ðông và nhà bia, lăng mộ Trần Ðình Ân mang nhiều giá trị tiêu biểu về một thời kỳ quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Quảng Trị thế kỷ XVII - XVIII.

Các di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia

Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại của Quảng Trị có “Nghệ thuật Bài chòi Trung bộ”. Khác với vùng Nam Trung bộ mang tính sân khấu hóa, bài chòi Quảng Trị là một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian mang tính cộng đồng, giá trị tiêu biểu của nghệ thuật diễn xướng gắn với trò chơi dân gian, là phương tiện giải trí và giao lưu tình cảm, cố kết cộng đồng. Bài chòi Quảng Trị mang tính cộng đồng cao, đối tượng tham gia rất đa dạng về thành phần, tuổi tác, nghề nghiệp, giới tính, trong làng, ngoài làng,... với hình thức chơi khá đơn giản, luật chơi dễ hiểu, hình thức diễn xướng hấp dẫn, sôi động. Đặc trưng nổi bật nhất là hình thức sử dụng chòi tre để ngồi chơi, sử dụng sử dụng làn điệu dân ca, tục ngữ để mô tả con bài. Giá trị nghệ thuật biểu hiện qua tài năng diễn xuất sáng tạo của người quản trò - anh Hiệu, với tài ứng biến khi hô, hát, ca bằng các câu hò, câu thai hấp dẫn, đem lại sự thích thú và sảng khoái của người chơi. Giá trị nghệ thuật đặc trưng còn được phản ánh ở khía cạnh âm nhạc bình dân, thể hiện qua câu thai mộc mạc, giản dị, với chất giọng địa phương đặc trưng Quảng Trị. Giá trị văn học dân gian cũng được biểu hiện phong phú và sinh động qua tên gọi các con bài dí dỏm gắn với nội dung các ca dao, tục ngữ, các tích truyện mang tính giáo dục về tình yêu quê hương đất nước, làng xóm, phản ánh đạo hiếu ông bà tổ tiên, tình nghĩa vợ chồng, hay thể hiện ước vọng phồn thực,... Hội bài Chòi Quảng Trị diễn ra vào dịp tết cổ truyền trong không gian sân chùa, đình làng, chợ quê càng tạo thêm phần giá trị và ý nghĩa, không chỉ để thưởng thức những câu thai, điệu hò trong không khí những này đầu năm, mà còn thử vận may, cầu mong một năm mới an khang thịnh vượng.

Di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia “Hò giã gạo Quảng Trị” là một nét đặc trưng riêng về loại hình diễn xướng dân gian gắn với bối cảnh hình thành và đặc trưng ngữ điệu và chất giọng địa phương Quảng Trị. Hò giã gạo không đơn thuần là một hình thức ca hát tập thể gắn với môi trường nông nghiệp nhằm thúc đẩy quá trình lao động, mà phát triển thành một hình thức nghệ thuật giải trí tập thể, trong các dịp nông nhàn, nhất là những đêm trăng thanh, vụ mùa đã thu hoạch. Giá trị nổi bật của di sản Hò giã gạo là đem lại sự thoải mái, vui vẻ cho người nông dân trong quá trình lao động sản xuất, là duyên cớ cho các buổi tụ họp, hội hè, thắt chặt tình làng nghĩa xóm, tạo nếp sống hòa ái và đặc biệt se duyên cho các đôi nam nữ. Hò giã gạo là vũ khí tinh thần hiệu triệu lòng yêu nước, tự hào dân tộc và tinh thần chống giặc ngoại xâm, giữ gìn quê hương. Đặc biệt, từ đặc thù của vùng giới tuyến, Hò giã gạo còn có chức năng là một vũ khí trong các cuộc kháng chiến, được các đội tuyên truyền văn nghệ xung kích diễn trong hầm, địa đạo, vùng giới tuyến, nhằm tuyên truyền động viên tinh thần quân dân đánh giặc, vận động con dân Quảng Trị bỏ hàng ngũ quân đội địch trở về với quê hương. Giá trị giáo dục của hò giã gạo được phản ánh qua chất liệu ca dao của các câu hò với nội dung phong phú, phản ánh muôn mặt đời sống, nổi bật là chủ đề về nhân nghĩa, tình yêu đôi lứa, các mối quan hệ gia đình, tình cảm của cha mẹ đối với con cái, đạo hiếu, lòng thủy chung chồng vợ, phê phán các thói hư tật xấu, trái với chuẩn mực, luân thường đạo lí.

Hệ thống di tích lịch sử Quốc gia và Quốc gia đặc biệt gắn với cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ

Nằm giữa khu vực Bình - Trị - Thiên khói lửa, Quảng Trị là một trong những địa bàn ác liệt, hứng chịu nhiều nhất số lượng bom đạn của kẻ thù, nhưng cũng không kém phần oanh liệt với nhiều chiến thắng vang dội, mang ý nghĩa quyết định. Vì vậy, Quảng Trị là nơi có nhiều nhất các di tích Quốc gia và Quốc gia đặc biệt về 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ so với cả nước, mang nhiều giá trị đặc biệt và tiêu biểu về lịch sử cách mạng và chủ nghĩa yêu nước. Quảng Trị như một bảo tàng lớn, sinh động về lịch sử chiến tranh với hơn 500 di tích, trong đó 4 di tích Quốc gia đặc biệt và 20 di tích Quốc gia. Mỗi di tích như những ký ức hào hùng về chiến tranh, hiện hữu qua những di tích lịch sử sừng sững, trải khắp Quảng Trị, từ miền biển lên vùng núi, từ thành thị đến nông thôn, từ trong bảo tàng đến ký ức của các cựu chiến binh,… mang những giá trị lịch sử sâu sắc, có ý nghĩa giáo dục chủ nghĩa yêu nước và tinh thần đấu tranh cách mạng cho các thế hệ.

Di tích thành cổ Quảng Trị: Biểu tượng sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt “Thành cổ Quảng Trị và những điểm lưu niệm sự kiện 81 ngày đêm năm 1972” là một hệ thống di tích gắn với những chiến công hiển hách, những tấm gương hy sinh anh dũng trong cuộc chiến đấu, trở thành những trang sử mang ý nghĩa giáo dục về cuộc chiến đấu oanh liệt và sự hy sinh dũng cảm trong cuộc tổng tiến công giải phóng Quảng Trị, góp phần làm nên trang vàng chói lọi trong lịch sử đấu tranh của dân tộc với sự kính phục của nhân dân thế giới.
Cụm di tích đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải: Biểu tượng khát vọng thống nhất non sông. Di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt “Đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải” là một hệ thống di tích không chỉ mang giá trị tiêu biểu về chứng tích của chiến tranh mà còn mang ý nghĩa biểu tượng của hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Di tích đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải với những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đã và đang góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, nâng cao lòng tự hào dân tộc và ý thức về chủ quyền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam không chỉ cho hôm nay mà còn mãi với các thế hệ con cháu mai sau.

Hệ thống di tích đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh: Biểu tượng của sức mạnh đấu tranh kiên cường và tinh thần ý chí bất khuất. Di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt “Đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh” là một hệ thống gồm nhiều di tích ghi dấu các sự kiện, những thành tích, chiến công vẻ vang và sự hy sinh gian khổ của Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn, thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến,… giữ vững mạch nối giữa hậu miền Bắc với chiến trường miền Nam, chi viện sức người, sức của. Đặc biệt, di tích nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn mang ý nghĩa là nơi tưởng niệm, suy tôn những người con tổ quốc đã anh dũng hy sinh trên các nẻo đường Trường Sơn vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của tinh thần, ý chí đấu tranh giành độc lập và khát vọng hòa bình của nhân dân Quảng Trị và cả nước.

Di tích Địa đạo Vịnh Mốc và hệ thống làng hầm Vĩnh Linh: Biểu tượng của sự sáng tạo và nghệ thuật kiến trúc độc đáo. Di tích lịch sử - kiến trúc nghệ thuật Quốc gia đặc biệt “Địa đạo Vịnh Mốc và hệ thống làng hầm Vĩnh Linh” là công trình mang giá trị tiêu biểu về nghệ thuật kiến trúc, kỹ thuật xây dựng tạo nên một trận địa liên hoàn bằng các hệ thống làng hầm được thiết kế hợp lý, đáp ứng nhiều chức năng trú ẩn, sinh hoạt, học tập, chiến đấu. Giá trị vĩ đại của địa đạo Vịnh Mốc là tuy chỉ bằng các công cụ thô sơ nhưng đã tạo nên một tổng thể cấu trúc liên hoàn, quy mô, phức tạp như một làng quê thu nhỏ dưới lòng đất. Hơn thế, địa đạo mang giá trị biểu tượng về một công trình lịch sử thể hiện lòng quyết tâm, ý chí sắt đá, sự nỗ lực phi thường của quân và dân Vịnh Mốc.

Căn cứ Tân Sở - di tích lịch sử Quốc gia gắn với phong trào Cần Vương. Di tích lịch sử căn cứ Tân Sở ở huyện Cam Lộ là một trong những di tích mang nhiều giá trị tiêu biểu, vừa là một điểm khảo cổ học có ý nghĩa đối với khu vực miền Trung, vừa thành lũy quân sự cuối cùng của triều đại phong kiến nhà Nguyễn. Di tích Tân Sở hiện nay đã bị phá hủy hoàn toàn, kinh đô của phong trào Cần Vương chỉ còn lại trong ký ức nhưng di tích Tân Sở mãi lưu danh sử sách với những giá trị lịch sử của một căn cứ thể hiện tinh thần chiến đấu kiên cường của giai cấp phong kiến quân chủ Việt Nam trong lãnh đạo chống ngoại xâm.

Chiến khu Ba Lòng - Di tích lịch sử Quốc gia gắn với kháng chiến chống Pháp. Giá trị lịch sử của chiến khu Ba Lòng còn được thể hiện qua hệ thống tổ chức tương đối hoàn chỉnh của mô hình nhà nước kháng chiến với đầy đủ bộ máy chính quyền, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể, có một cơ cấu kinh tế gồm các ngành như nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp dịch vụ, vì vậy có giá trị làm chỗ dựa tinh thần cho nhân dân về một chế độ mới, chế độ dân chủ nhân dân.

Di tích lịch sử Quốc gia nhà tù Lao Bảo. Di tích nhà tù Lao Bảo không chỉ là bằng chứng sống động nhất về tội ác của thực dân Pháp, mà còn góp phần minh chứng cho sự kiên trung, tinh thần bất khuất, ý chí phản kháng quật cường của những người chiến sĩ cách mạng. Hiện nay, di tích đã được tu sửa và giữ gìn, trở thành chứng tích nhắc nhở chúng ta về một thời kỳ chiến tranh máu lửa, về sự đấu tranh gian khổ, hi sinh mất mát của thế hệ ông, cha để giành độc lập, thống nhất cho quê hương, đất nước.

Di tích lịch sử Quốc gia Dốc Miếu - Cồn Tiên. Di tích lịch sử Dốc Miếu và Cồn Tiên là nơi ghi dấu chiến thắng vang dội của quân đội ta đối với hai cứ điểm quân sự chiến lược trong tuyến phòng thủ “hàng rào điện tử Mc.Namara”. Di tích tượng đài chiến thắng Dốc Miếu - Cồn Tiên hiện diện sừng sững trên đỉnh đồi cao không chỉ mang ý nghĩa biểu tượng về tinh thần chiến đấu quả cảm, mưu trí, mà còn vinh danh sự hi sinh không tiếc xương máu của các chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.

Di tích lịch sử Quốc gia sân bay Tà Cơn. Di tích sân bay Tà Cơn là nơi ghi dấu chiến thắng lịch sử của quân đội ta đối với một cụm cứ điểm quân sự chiến lược của quân đội Mỹ trong chiến dịch giải phóng Khe Sanh năm 1968. Chiến thắng của quân đội ta ở sân bay Tà Cơn mang một ý nghĩa lịch sử to lớn, góp phần đập tan cứ điểm chiến lược Khe Sanh. Di tích chiến thắng Tà Cơn không chỉ là nơi lưu giữ những chứng tích chiến tranh mà còn là nơi tôn vinh cuộc chiến đấu chính nghĩa, làm vẻ vang mảnh đất Khe Sanh kiên cường của quân và dân Quảng Trị anh hùng.

Di tích lịch sử Quốc gia trụ sở Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Di tích trụ sở Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam gắn với cơ quan quyền lực cao nhất, đại diện cho cách mạng miền Nam từ tháng 6/1973 đến tháng 5/1975. Sự tồn tại của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam chỉ 2 năm nhưng có ý nghĩa to lớn, khẳng định vị thế chủ quyền, xây dựng niềm tin vững chắc cho quân và dân ta trên chiến trường, nắm thế chủ động trên mặt trận ngoại giao. Khu di tích hiện nay được tôn tạo, phục dựng trở thành bằng chứng sinh động cho lịch sử đấu tranh gian khổ, đầy đau thương, mất mát nhưng cũng rất đỗi oai hùng của quân và dân ta.

Di tích lịch sử Quốc gia - Khu lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn. Di tích khu lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn có giá trị giáo dục lịch sử về một nơi đã sinh ra, nuôi dưỡng và hình thành nên một một lãnh tụ cách mạng vĩ đại của Việt Nam, một người con ưu tú của quê hương Quảng Trị: Tổng Bí thư Lê Duẩn. Di tích mang nhiều giá trị tiêu biểu về giáo dục cho thế hệ trẻ đối với lý tưởng cách mạng, những ngày tháng gian khổ, những cuộc chiến đấu và xây dựng CNXH của đồng chí Lê Duẫn, về khí phách kiên trung của một lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc, một chiến sĩ kiên cường của phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế. Di tích khu lưu niệm tuy đơn sơ về cuộc đời giản dị của đống chí Lê Duẫn nhưng chứa đựng nhiều giá trị tiêu biểu về hình mẫu điển hình của một chiến sĩ cộng sản, một nhà lãnh đạo kiệt xuất. Khu di tích trưng bày những hiện vật, tư liệu gắn liền tuổi trẻ và những năm tháng hoạt động cách mạng của đồng chí ở quê nhà, phản ánh về phát triển phong trào đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, về những cống hiến to lớn của đồng chí Lê Duẩn đối với Đảng và cách mạng Việt Nam. Khu di tích là địa chỉ đỏ mang yá nghĩa giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng cho các thế hệ hôm nay và mai sau.