Quảng Bình nằm ở cực bắc của Bình - Trị - Thiên, nổi tiếng với các danh xưng Địa lý, Bố Chính, Lâm Bình, Tân Bình trong tiến trình xác lập cương thổ về phía Nam của nhà nước Đại Việt, gắn với lịch sử khai hoang lập làng của các dòng họ. Những di sản văn hóa, di tích lịch sử gắn với tên làng, tên nước nơi đây không chỉ có giá trị của vùng đất mở nước đầu tiên trong lịch sử Đại Việt mà còn là “trọng trấn”, “tiền đồn” giữ vững an toàn biên thùy phía Nam của Tổ quốc trong nhiều thế kỉ. Quảng Bình không chỉ là nơi giao thoa, hội tụ và lưu giữ những dấu tích lịch sử - văn hóa của các cồng đồng dân cư, mà nơi đây còn là mảnh đất lan tỏa truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng, là vùng địa linh nhân kiệt, sản sinh nhiều danh nhân, danh tướng tài ba của dân tộc trong lịch sử cũng như hiện nay.
Trong quá trình hình thành và phát triển, nơi đây đã hình thành, giữ gìn và lan tỏa nhiều giá trị tiêu biểu về tự nhiên, lịch sử và văn hóa, với những thắng cảnh, địa danh nổi tiếng như vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, đèo Ngang, sông Gianh, sông Nhật Lệ, phá Hạc Hải, Bàu Tró, Bàu Sen, Lũy Thầy, núi Đâu Mâu, hò khoan Lệ Thủy, đua thuyền Quảng Ninh,… Hiện nay, tỉnh Quảng Bình có 1 di sản thiên nhiên thế giới Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, 1 di sản văn hóa thế giới về nghệ thuật bài chòi, có 55 di tích Quốc gia và Quốc gia đặc biệt về loại hình kiến trúc nghệ thuật, lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh gồm các di tích thành, lũy cổ, di tích kiến trúc đình làng, điện, chùa, miếu, nhà thờ và lăng mộ, di tích gắn với danh nhân lịch sử, di tích gắn với cách mạng kháng chiến, di sản văn hóa phi vật thể,...
Quảng Bình là vùng đất của “bát danh hương” của địa linh nhân kiệt, trải chiều dài lịch sử, luôn sản sinh ra nhiều danh tướng như Hồ Cưỡng, Mai Lượng, Nguyễn Dụng, Lê Sĩ, Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Hào, Nguyễn Hữu Cảnh, Hoàng Kế Viêm, Hoàng Hối Khanh,… Gắn liền với các danh tướng, võ tướng là hệ thống các di tích lăng mộ, nhà thờ, nhà bia,… Trong đó có nhiều lăng mộ, nhà thờ được công nhận là di tích Quốc gia có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa và kiến trúc nghệ thuật như lăng mộ danh tướng Hồ Cưỡng ở Bố Trạch, “Khai quốc công thần” Nguyễn Hữu Cảnh và danh tướng Hoàng Hối Khanh ở Lệ Thủy, danh tướng Nguyễn Dụng và danh tướng Mai Lượng ở Quảng Trạch, danh tướng Lê Sĩ và đại thần Hoàng Kế Viêm ở Quảng Ninh, đề đốc Lê Trực ở Tuyên Hóa,… Mỗi di tích đều có giá trị phản ánh thân thế và sự nghiệp của các vị danh tướng, danh nhân đối với lịch sử vùng đất Quảng Bình nói riêng và dân tộc nói chung.
Di tích lăng mộ danh tướng Hồ Cưỡng có giá trị lịch sử gắn với tên tuổi của vị tướng văn võ song toàn thời nhà Trần - Hồ, một danh nhân lịch sử không chỉ có công lao trong chống giặc ngoại xâm vừa mà còn khai khoang lập nên làng xã ở vùng Bố Trạch. Giá trị của di tích và miếu thờ danh tướng Hoàng Hối Khanh (1362-1407) gắn với nhân vật lịch sử có nhiều đóng góp lớn trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao và cải cách kinh tế nước ta cuối thế kỷ XIV và đầu thế kỷ XV. Tên tuổi ông gắn với lịch sử khai hoang lập điền trang ở vùng sông Kiến Giang, được nhân dân coi là vị tiền bối khai khẩn của vùng đất Lệ Thuỷ ngày nay. Ông có khí tiết trung quân ái quốc, được các vua Nguyễn truy phong Đặc Tấn phụ quốc, Thượng tướng quân, Tăng kiết tiết linh thông Hoàng quận công, tước phong Dực bảo trung hưng linh phù đoan túc tôn thần.
Giá trị của di tích lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh (1650-1700) gắn với danh tướng thời chúa Nguyễn Phúc Chu, người có tài thao lược, trí thông minh và bản lĩnh hơn người, đã lập nhiều chiến công hiển hách. Tên tuổi ông gắn với lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, là người có công đầu trong xác lập pháp lý về cư dân và cương thổ Quốc gia. Tên tuổi ông gắn với công trạng “Khai quốc công thần”, được truy tước vị "Khai quốc công thần, Tráng võ tướng quân, Thần cơ đốc thống, tước Vĩnh An Hầu, thuỵ là Tráng Hoàng”, thờ ở Thái miếu, vua Tự Đức ban sắc truy tặng là Lễ Thành Hầu.
Giá trị của di tích lăng mộ danh tướng Nguyễn Dụng (1734-1815) - một vị đại tướng quân thời Tây Sơn - Nguyễn Huệ có công lao trong kháng chiến chống Pháp cuối thế kỷ XIX, đấu tranh giải phóng dân nghèo, đem lại cuộc sống ấm no cho quê hương. Di tích lăng mộ danh tướng Lê Sỹ (1816-1883) có giá trị lịch sử về một vị quan thời Nguyễn văn võ toàn tài, cương trực, thương dân, sẵn sàng hy sinh thân mình vì sự tồn vong của dân tộc. Tên tuổi ông gắn với trận chiến ở cửa biển Thuận An, thể hiện ý chí chiến đấu ngoan cường của quân ta và tinh thần căm thù giặc cao độ.
Giá trị của quần thể di tích lăng mộ và nhà thờ Hoàng Kế Viêm (1820-1909) - về một nhân vật lịch sử, một vị quan đại thần triều Nguyễn có nhiều chiến công hiển hách trong chống Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tham gia đánh dẹp loạn giặc cờ Đen, cờ Trắng, buộc địch phải trả Hà Nội cho triều Nguyễn. Di tích lăng mộ và nhà thờ Đề đốc Lê Trực (1828-1918) và danh tướng Mai Lượng (1838-1890) có giá trị lịch sử gắn với những vị tướng xuất sắc trong phong trào Cần Vương chống Pháp ở Quảng Bình những năm cuối thế kỷ XIX.
Di tích lăng mộ, miếu thờ, nhà thờ của các danh tướng, danh nhân lịch sử ở Quảng Bình không chỉ mang giá trị lịch sử gắn với công trạng đánh giặc, khai hoang lập làng mà còn có giá trị về kiến trúc nghệ thuật mang ý nghĩa trường tồn. Các di tích tọa lạc ở vùng núi non sơn thủy hữu tình, mang ý nghĩa phong thủy, cầu mong tốt lành, phúc thọ bình yên như. Lăng mộ Hoàng Hối Khanh có địa thế phong thủy trên núi An Mã, lăng mộ danh tướng Mai Lượng tọa lạc trên một địa hình trước là sông Rào Nan sau là núi Hòn Nậy; lăng mộ danh tướng Nguyễn Dụng có giá trị nghệ thuật kiến trúc, lăng mộ và nhà thờ Đề đốc Lê Trực được bảo tồn khá nguyên vẹn, có bố cục chữ Đinh, các đường nét hoa văn, hoa lá, mây trăng, rồng phượng chạm trổ tinh tế, có giá trị trong việc nghiên cứu nghệ thuật kiến trúc nhà thờ điển hình thời Nguyễn. Nơi đây, hàng năm vào ngày kỵ giỗ, con cháu, nhân dân và chính quyền địa phương làm lễ dâng hương, tưởng niệm, cũng là dịp giáo dục thế hệ trẻ tưởng nhớ về những vị danh nhân, danh tướng có công lao to lớn với quê hương đất nước, về lịch sử đấu tranh hào hùng của cha ông.
Quảng Bình nằm ở vị trí chiến lược của chiến trường liên khu IV, trên tuyến giao thông Bắc - Nam cả đường thủy và đường bộ, hậu phương trực tiếp cho chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Trong kháng chiến, Quảng Bình là một trong những địa bàn mà địch tập trung mọi lực lượng hiện đại đánh phá ác liệt nhất, hòng dập tắt các cư điểm trận địa, cắt đứt mạch giao thông, chặn đứng sự chi viện của ta cho chiến trường miền Nam. Ở nơi hẹp nhất nhưng quan trọng nhất của đất nước, nhân dân và lực lượng vũ trang Quảng Bình đã đảm nhận tốt trọng trách lịch sử với một ý chí kiên cường, dũng cảm và tài trí thông minh trong những năm tháng chiến tranh. Trãi qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, mỗi tấc đất, bến đò, mỗi xóm làng, đình chùa,… đều ghi dấu những sự kiện lịch sử, những trận đánh hào hùng, những con người quả cảm, làm nên cao trào “Quảng Bình quật khởi”.
Hệ thống di tích lịch sử gắn với kháng chiến chống Pháp và Mỹ ở Quảng Bình đa dạng và phong phú về loại hình, sự kiện, tên làng, tên người, địa điểm, trải từ đồng bằng lên núi rừng, từ làng quê đến đô thị, từ nhà ga đến bến phà, từ nhà nhóm đến chiến khu, từ phụ lão đến phụ nữ,… Mỗi di tích đều chứa đựng các giá trị giáo dục về ý chí và tinh thần quật khởi của quân và dân Quảng Bình, sự đoàn kết một lòng, sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ hy sinh chiến đấu giải phóng quê hương, bảo vệ đất nước. Mỗi di tích mang trong mình những giá trị lịch sử, không chỉ ghi dấu về những chiến thắng hào hùng mà cả đau thương mất mát, vì vậy có ý nghĩa giáo dục sâu sắc cho thế hệ trẻ, kế thừa và phát huy về lòng yêu nước, sự cống hiến trong xây dựng quê hương hiện nay.
Di tích lịch sử gắn với phong trào đấu tranh ở làng xã Quảng Bình tiêu biểu có “làng chiến đấu” Cự Nẫm và Cảnh Dương được hình thành trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Cự Nẫm mang giá trị lịch sử tiêu biểu về ngôi làng đầu tiên và điển hình của phong trào xây dựng “làng chiến đấu” chống Pháp ở Quảng Bình. Giá trị lịch sử của làng chiến đấu Cự Nẫm được làm nên bởi những chiến thắng vẻ vang và tinh thần chiến đấu kiên cường của nhân dân "Cự Nẫm anh hùng". Di tích lịch sử làng Cảnh Dương không chỉ mang giá trị về truyền thống khoa bảng trong “bát danh hương” của Quảng Bình, mà còn là “làng chiến đấu” kiểu mẫu ở cửa ngõ vùng tự do Bắc Quảng Trạch nối liền với Thanh - Nghệ Tĩnh. Làng chiến đấu Cảnh Dương gắn với những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, giữ vị trí tiền tiêu và vai trò xung yếu trên trục giao thông Bắc - Nam, xứng danh "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân". Di tích làng chiến đấu Cự Nẫm và Cảnh Dương có giá trị giáo dục lịch sử về sự sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân, về tinh thần cách mạng của nhân dân. Di tích làng chiến đấu Cự Nẫm, Cảnh Dương mãi mãi là niềm tự hào về truyền thống đánh giặc giữ làng, là nguồn động viên, cổ vũ cho thế hệ Quảng Bình hôm nay và mai sau. Di tích lịch sử kháng chiến gắn với làng xã còn có “Nhà nhóm thôn Trung” là một di tích có giá trị tiêu biểu trong thời kỳ chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8-1945 ở Quảng Bình. Giá trị của di tích lịch sử “nhà nhóm thôn Trung” phản ánh qua vai trò là căn cứ huấn luyện quân sự cho quân tự vệ võ trang các địa phương toàn tỉnh, chuẩn bị lực lượng giành chính quyền trong Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng 8-1945, là địa chỉ đỏ có ý nghĩa giáo dục truyền thống đấu tranh cách mạng.
Di tích lịch sử kháng chiến gắn với hệ thống giao thông Bắc - Nam ở Quảng Bình tiêu biểu có di tích ga Kẻ Rấy ở thị trấn Hoàn Lão, bến phà Gianh ở Bố Trạch, bến đò mẹ suốt ở Đồng Hới, bến phà Quán Hàu và Long Đại ở Quảng Ninh,… Di tích ga Kẻ Rấy mang giá trị lịch sử về địa điểm thành lập chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên của Quảng Bình ngày 22-4-1930, sự kiện có ý nghĩa đánh dấu bước ngoặt lịch sử, là nhân tố tạo nên thắng lợi của phong trào cách mạng.
Di tích bến đò Mẹ Suốt ở thành phố Đồng Hới là một di tích lịch sử quan trọng và tiêu biểu của Quảng Bình trong thời kỳ chống Mỹ, gắn với người mẹ anh hùng. Hình ảnh mẹ Suốt hiên ngang cầm chắc tay chèo chở bộ đội sang sông, vận chuyển đạn dược dưới mưa bom lửa đạn của giặc Mỹ, trở thành biểu tượng của ý chí không chịu khuất phục của dân tộc ta trong những năm kháng chiến ác liệt, dưới những làn bom đạn của máy bay Mỹ.
Di tích bến phà Gianh mang nhiều giá trị lịch sử gắn với những năm tháng kháng chiến chống Mỹ ác liệt. Di tích bến phà Gianh mang giá trị về một địa điểm lịch sử có vai trò quan trọng đảm bảo mạch máu giao thông chi viện kịp thời cho chiến trường miền Nam, góp phần vào thắng lợi cuối cùng, thống nhất đất nước. Di tích mang giá trị gắn với những thắng lợi lịch sử, là minh chứng cho sự sáng tạo, lòng dũng cảm của quân và dân ta trên mặt trận giao thông vận tải. Cùng nằm trên tuyến giao thông huyết mạch Bắc - Nam, nối hậu phương lớn với chiến trường miền Nam là bến phà Quán Hàu lịch sử, được thực dân Pháp xây dựng cùng năm 1886 với bến phà Gianh, nhằm mục đích phục vụ tối đa quá trình khai thác thuộc địa. Ngược về thượng nguồn nơi ngã ba sông Nhật Lệ - Kiến Giang là bến phà Long Đại lịch sử. Đây là 2 bến phà lịch sử đóng góp vai trò quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là điểm vượt sông trọng yếu trong “tọa độ lửa” của tuyến đường Hồ Chí Minh lịch sử, điểm “yết hầu” đặc biệt quan trọng trên tuyến quốc lộ 1A - cầu nối huyết mạch giao thông giữa hậu phương với chiến trường miền Nam và Lào. Giá trị lịch sử của bến phà Quán Hàu và Long Đại gắn với những thắng lợi quyết định của quân ta trong chiến dịch Tết Mậu Thân năm 1968, chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1971, chiến dịch Trị Thiên năm 1972 và chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975. Các bến phà ngày nay trở thành những địa danh lịch sử mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc cho thế hệ trẻ về truyền thống đấu tranh cách mạng, về ý chí kiên cường, gương chiến đấu anh dũng, gắn với những chiến công xuất sắc, sự hi sinh không tiếc tuổi trẻ của các thế hệ ông, cha.
Di tích lịch sử bến phà Gianh, bến phà Quán Hàu, bến phà Long Đại, bến đò Mẹ Suốt mang những giá trị tiêu biểu trong lịch sử ngành Giao thông - Vận tải và lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cho dù những cây cầu được xây lên, bến phà kết thúc vai trò lịch sử của mình. Tại bến đò, tượng đài Mẹ Suốt được xây dựng để tưởng nhớ về “Mẹ Suốt anh hùng”, có ý nghĩa nhắc nhở và giáo dục các thế hệ trẻ về tấm gương chiến đấu của bà mẹ Việt Nam. Tại các bến phà, công trình đền tưởng niệm được xây lên để tưởng nhớ, tri ân các anh hùng liệt sỹ đã anh dũng “hy sinh cho tổ quốc quyết sinh”.
Các di tích lịch sử gắn với trận địa kháng chiến tiểu biểu là trận địa pháo của các lão dân quân ở Đức Ninh và nữ đại đội dân quân ở Ngư Thủy. Di tích trận địa pháo Đức Ninh nằm trên ngọn đồi cao, nơi bị không quân Mỹ đánh phá ác liệt. Di tích lịch sử trận địa pháo Đức Ninh gắn với thành tích của các lão dân quân bắn rơi máy bay F105 và F4H của Mỹ, viết nên những chiến công vẻ vang của quân dân Quảng Bình, góp phần kích lệ truyền thống chiến đấu “giặc đến nhà, trẻ già đều là chiến sỹ”. Di tích trận địa pháo của nữ đại đội dân quân Ngư Thuỷ nằm ở "cửa ngõ" trong tuyến chi viện cho miền Nam bằng đường biển, bị đế quốc Mỹ thường xuyên bắn phá ác liệt. Di tích mang những giá trị lịch sử gắn liền với những chiến công của đại đội nữ dân quân đánh trả cuộc bắn phá trên không của Mỹ trong giai đoạn 1968-1972, xứng danh “Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang”. Các di tích trận địa pháo không chỉ mang giá trị lịch sử của những chiến công tiêu biểu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ bằng pháo binh, mà còn có ý nghĩa vinh danh những phụ lão, phụ nữ Việt Nam dũng cảm, kiên cường.
Di tích lịch sử gắn với chiến khu kháng chiến tiêu biểu trong những năm đầu chống Pháp là chiến khu Trung Thuần ở Quảng Trạch, thành lập ngày 21-7-1945. Chiến khu là nơi tích trữ lương thực, vũ khí, huấn luyện lực lượng tự vệ, vũ trang, tạo nên thế mạnh hậu phương cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền thắng lợi ở Trung Thuần, Quảng Phong và huyện Quảng Trạch trong cách mạng tháng 8-1945. Di tích chiến khu Trung Thuần mang nhiều giá trị lịch sử của căn cứ cách mạng trong kháng chiến chống Pháp, là hậu cứ đặc biệt quan trọng trong kháng chiến chống Mỹ. Chiến khu Trung Thuần là mảnh đất đã đi vào lịch sử dân tộc là căn cứ địa cách mạng đóng vai trò quan trọng đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, giáo dục niềm tự hào của bao thế hệ người dân Quảng Bình.
Di tích lịch sử chiến thắng Xuân Bồ là nơi ghi dấu trận chiến đấu oanh liệt của quân và dân ta với thực dân Pháp ngày 20-5-1950, trong chiến dịch Thu Đông. Di tích chiến thắng là minh chứng cho sự sáng tạo và bản lĩnh tinh thần không hề nao núng, quyết tâm đánh địch đến cùng của quân và dân Xuân Bồ, đặc biệt là anh hùng Lâm Úy. Di tích Xuân Bồ đã trở thành nguồn động viên, cổ vũ tinh thần hết sức lớn lao và kịp thời cho cán bộ và chiến sỹ trên chiến trường Bình - Trị - Thiên khói lửa, có giá trị giáo dục về sự mưu trí, dũng cảm, tinh thần quyết chiến và sự hy sinh cao cả, góp phần làm nên thắng lợi chung của toàn dân tộc.
Trong hệ thống di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trên các tuyến đường huyết mạch như đường 20 - Quyết Thắng, đường 12A, đặc biệt là đường Hồ Chí Minh lịch sử,… qua địa bàn các huyện Minh Hóa, Bố Trạch, Quảng Ninh, có nhiều vị trí chiến lược, trọng điểm đã trở thành những di tích mang giá trị tiêu biểu về đấu tranh cách mạng. Các trọng điểm trên “Đường 20 - Quyết thắng” thuộc hệ thống di tích lịch sử đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh huyền thoại, gồm Trà Ang, Km số 0, Km 14,5, Km 16,5, cua chữ A, đèo Pu-la-nhích, ngầm Ta Lê,... Các di tích thuộc đường 12A gồm có trọng điểm La Trọng, Bãi Dinh, Khe Tang là các khu vực ngầm, suối, cầu, đèo, làng bản sinh sống của người Khùa, Mày, Sách, Rục, Lào,… và các trọng điểm Đồi 37, Cha Lo, Cổng Trời, Hang Dơi, Hang Tiên (km 36 - 37,5), là các kho xăng dầu, công sự ngầm kiên cố. Đây là các tọa độ trọng yếu thường xuyên bị Mỹ tập trung bắn phá ngày đêm hòng phá hủy, cắt đứt tuyến vận chuyển xăng dầu chi viện cho tuyến đường 559 và các chiến trường miền Nam. Các trọng điểm mang giá trị lịch sử gắn liền với tên tuổi của các đơn vị anh hùng tham gia chiến đấu, bảo vệ tuyến đường, cầu, cống, ngầm, kho xăng, đạn,… bất chấp mọi hy sinh gian khổ ngày đêm hoàn thành nhiệm vụ. Nơi đây, hàng trăm chiến sĩ, thanh niên xung phong đã hy sinh, mỗi chiến tích của họ đã đi vào lịch sử, trở thành huyền thoại. Tiêu biểu như di tích hang Tám Cô - một trọng điểm ác liệt, nơi ghi dấu sự đóng góp to lớn của lực lượng thanh niên xung phong cống hiến tuổi thanh xuân giữ cho tuyến đường thông suốt. Sự hi sinh của 8 anh chị thanh niên xung phong sau một đợt ném bom của giặc Mỹ làm sập cửa hang, mang ý nghĩa giáo dục về tinh thần hi sinh, cống hiến của “tập thể anh hùng”. Ở mỗi trọng điểm có các tấm bia, nhà tưởng niệm được dựng lên không chỉ đánh dấu một di tích lịch sử quan trọng trên con đường lịch sử mang tên Bác Hồ Chí Minh mà còn mang ý nghĩa giáo dục và sự tri ân.
Trong hệ thống di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt thuộc hệ thống đường Trường Sơn huyền thoại - đường Hồ Chí Minh lịch sử, có những địa điểm lịch sử gắn với cơ quan đầu não “Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh 559”. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Quảng Bình luôn là địa bàn mà Bộ Tư lệnh 559 chọn làm “đại bản doanh”, gắn với những địa danh, những tên làng, tên đất của huyện Minh Hóa, Quảng Ninh. Di tích Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh 559 ở huyện Minh Hóa là hang đá thuộc xã Hóa Tiến, trên đường 15 thuộc đường Hồ Chí Minh, để trực tiếp chỉ huy vận tải chi viện cho chiến trường miền Nam - Lào - Campuchia trong thời kỳ 1965-1972. Di tích Sở chỉ huy mang nhiều giá trị lịch sử gắn với những cuộc họp quan trọng, nhiều quyết định chiến lược về cầu đường, vận tải, ngăn chặn không quân, mở chiến dịch mùa khô 1965-1966,... góp phần vào thắng lợi của quân ta. Cuối năm 1972, Sở Chỉ huy Bộ Tư lệnh 559 chuyển về xã Hiền Ninh, huyện Quảng Ninh, nơi ngã 3 sông lớn với bến phà trọng điểm Long Đại, nối với có tuyến quốc lộ 15A vận tải hàng vào chiến trường miền Nam. Cụm di tích Sở Chỉ huy Bộ Tư lệnh 559 ở huyện Quảng Ninh gồm nhiều công trình gắn với những quyết định chiến lược, những trận đánh lớn trên mặt trận Bình Trị Thiên và tuyến đường Hồ Chí Minh những năm 1972 - 1973, tạo đà, chuẩn bị thế và lực cho chiến dịch giải phóng miền Nam năm 1975. Hiện nay, cùng với việc xây dựng phòng truyền thống, cụm di tích trở thành trung tâm sinh hoạt lịch sử - văn hóa của địa phương, một địa chỉ đỏ có giá trị giáo dục cho thế hệ trẻ về một thời hào hùng của quê hương Quảng Ninh với tinh thần “Tất cả vì miền Nam thân yêu”.
Di tích Bàu Tró ở phường Hải Thành, tp. Đồng Hới là một trong số ít di tích khảo cổ học cấp Quốc gia ở Việt Nam, vừa mang những giá trị về mặt lịch sử khảo cổ, vừa có giá trị sinh thái cảnh quan. Di tích khảo cổ học Bàu Tró được phát hiện và nghiên cứu từ đầu thế kỷ XX, là bàu nước tự nhiên được tạo vào thời kỳ cuối HOLOXEN (nhân sinh) của hệ thứ tư (đệ tứ Quảng Nam) cách đây chưa đầy triệu năm. Giá trị giáo dục về khảo cổ học được phản ánh qua số lượng hiện vật phong phú và chứa đựng nhiều thông tin về thời cổ đại ở Việt Nam như gốm hoa văn vặn thừng, khắc vạch, mảnh tước, phiến tước dài, bàn nghiền, bàn mài, chày nghiền, vòng tay, phiến đá có dấu vết chế tác, rìu, bôn, mũi nhọn bằng đá, vỏ sò, ốc,… Với quy mô và ý nghĩa khoa học to lớn, di chỉ khảo cổ học Bàu Tró được các nhà nghiên cứu cho tên nền văn hóa hậu kỳ đá mới phân bố vùng ven biển Nghệ Tĩnh - Quảng Bình - Quảng Trị - Thừa Thiên Huế. Ngoài giá trị về khảo cổ tiền sử, Bàu Tró còn có giá trị về thắng cảnh dân dụng, là hồ nước ngọt cung cấp nước sinh hoạt, nước nông nghiệp thành phố Đồng Hới.
Là một vùng đất có chiều sâu về lịch sử và bề dày về văn hóa, Quảng Bình không chỉ tự hào về các ngôi làng văn vật, truyền thống khoa bảng của “Bát danh hương”, truyền thống cách mạng của “làng chiến đấu”, mà còn tự hào về một đời sống làng xã phong phú và đa dạng với nhiều giá trị văn hóa phi vật thể tiêu biểu. Một trong những giá trị đó là các lễ hội truyền thống, diễn xướng dân gian được thực hành và lưu truyền qua nhiều thế hệ, làm sinh động và ý nghĩa đời sống tinh thần cộng đồng làng xã, góp phần tạo nên bản sắc đặc trưng của văn hóa dân gian Quảng Bình. Trong đó có nhiều lễ hội, loại hình diễn xướng mang các giá trị tiêu biểu đã vinh dự được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ghi vào danh mục Di sản văn hóa Phi vật thể Quốc gia như: Hò khoan Lệ Thủy, lễ hội đua thuyền trên sông Kiến Giang, lễ hội cầu Ngư, lễ hội trỉa lúa (lấp lỗ) của đồng bào Bru - Vân Kiều. Đặc biệt, lễ hội bài chòi được UNESCO tôn vinh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại.
Di sản văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại “Nghệ thuật Bài Chòi Trung bộ Việt Nam” được UNESCO ghi danh năm 2017, là một loại hình sinh hoạt trò chơi dân gian gắn với nghệ thuật diễn xướng phổ biến ở các tỉnh miền Trung, trong đó có Quảng Bình. Di sản bài Chòi mang nhiều giá trị tiêu biểu về nghệ thuật diễn xướng độc đáo và bản sắc, thể hiện qua âm nhạc, các làn điệu dân ca, các bài hò, vè,… mang đặc trưng vùng quê Quảng Bình. Giá trị của di sản bài Chòi được thể hiện qua nội dung trình diễn hò, hát dân phản ánh tình yêu quê hương, tình cảm gia đình, về lối sống, những tri thức và kinh nghiệm trong lao động, không chỉ là những bài học về đạo đức, lòng nhân ái, mà còn phản ánh nhân tình thế thái, phê phán thói hư tật xấu trong xã hội, để hướng tới cuộc sống nhân ái, lành mạnh và có ích. Di sản bài Chòi mang giá trị cố kết cộng đồng của một sinh hoạt văn hóa dân gian trong những ngày nghỉ ngơi, vui chơi, giai trí và cầu may đầu Xuân, có sự tham gia của mọi thành phần, lứa tuổi và giai tầng trong xã hội.
Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia “Hò khoan Lệ Thủy” là một hình thức diễn xướng mang đậm bản sắc văn hóa của cộng đồng cư dân đôi bờ sông Kiến Giang. Giá trị nghệ thuật tiêu biểu của di sản hò khoan Lệ Thủy được biểu hiện qua giai điệu hò khoan sâu lắng, lời ca mộc mạc, lối hát dung dị nhưng có sức lay động lòng người, qua hệ thống đặc trưng chín mái hò khoan (lỉa trâu, mái nhài (dài ), mái ruỗi, mái chè, mái nện, mái ba, mái xắp, mái hò khơi và mái hò Nậu xăm), qua lối đối đáp thô sơ nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu xa. Giá trị của hò khoan Lệ Thủy còn được phản ánh qua ý nghĩa tinh thần và nhân văn của mỗi câu hò, mỗi buổi hò, giúp cởi bỏ những khó khăn, mệt nhọc của đồng áng, chợ búa, giúp gắn kết cộng đồng qua các buổi hò khoan, giao duyên. Những câu hò khoan Lệ Thủy còn mang giá trị giáo dục về tình yêu quê hương, tinh thần lao động, kinh nghiệm sản xuất, lối sống, gửi gắm các mong ước về cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia “Lễ hội đua thuyền trên sông Kiến Giang” mang những giá trị đặc trưng văn hóa cư dân nông nghiệp và ngư nghiệp vùng sông nước huyện Quảng Ninh và Lệ Thủy. Đây là lễ hội cộng đồng mang giá trị đề cao tinh thần tập thể và đoàn kết, thể hiện sức mạnh đồng đội gắn với tinh thần thượng võ nhằm hướng tới ước vọng cộng đồng về cầu mùa và cầu an. Giá trị văn hóa tâm linh của lễ hội phản ánh qua nghi lễ cúng tế tổ tiên, các vị thần linh bảo hộ cộng đồng về mùa màng, sức khỏe, sự an nguy trong đời sống và lao động cho cộng đồng. Lễ hội đua thuyền góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống, di sản vật chất và tinh thần, thông qua lễ hội nhiều hình thức được tái hiện, nhiều giá trị được lưu truyền từ quy trình tế lễ đến các trò diễn dân gian, dân ca, dân vũ,…
Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia “Lễ hội Cầu ngư” là một sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng dân gian tiêu biểu và quan trọng bậc nhất của ngư dân miền biển Quảng Bình, gắn với tín ngưỡng thờ cá voi phổ biến ở các làng biển. Cá Ông là vị thần hộ mệnh, cứu giúp người dân trên biển mỗi khi gặp bão tố, sóng gió, được liệt vào “phúc thần” hàng đầu trong hệ thống thần linh biển của tín ngưỡng thờ thần biển ở miền Trung. Hàng năm các làng biển ở Quảng Bình tổ chức lễ hội cầu ngư vào dịp lễ Tết hoặc bắt đầu vụ mùa đánh bắt, với mục đích cầu mùa, cầu an. Lễ hội cầu ngư phản ánh nhiều giá trị tốt đẹp, nhân văn của cộng đồng ngư dân, nhằm thắt chặt thêm tình đoàn kết, tương trợ lẫn nhau. Lễ hội cầu ngư mang giá trị khát vọng hướng tới bình yên, ấm no trong cuộc sống của ngư dân, những con người luôn phải đối mặt với những bất trắc trong cuộc mưu sinh trên biển.
Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia “Lễ hội trỉa lúa của dân tộc Bru- Vân Kiều” là một trong những lễ hội có vai trò quan trọng, phản ánh nhiều nét đẹp mang giá trị bản sắc văn hóa tộc người miền núi phía tây Quảng Bình. Lễ hội trỉa lúa được tổ chức trong mỗi mùa vụ, trước khi trỉa với ý nghĩa cầu mong thần Lúa, thần Trời, thần Nước, thần Rừng, thần Núi,… bảo hộ cho “chắc hạt, nặng bông” vụ mùa bội thu để bản làng yên ấm. Lễ hội trỉa lúa thể hiện đầy đủ bản sắc văn hóa của dân tộc Bru - Vân Kiều phản ánh qua thực hành nghi lễ, lễ vật, trang phục, ẩm thực và các loại hình dân ca dân vũ,... cũng như những quan niệm về nhân sinh quan, thế giới quan gắn với ý nghĩa cầu mùa, cầu an.