Giá trị về chính trị và quân sự của hệ thống di tích lịch sử, di sản văn hóa ở tỉnh Quảng Bình

Hệ thống di tích Quốc gia là thành lũy cổ

Hệ thống thành, lũy ở Quảng Bình được hình thành trong các giai đoạn lịch sử, tạo nên sự phong phú và đa dạng về loại hình và chức năng, phản ánh nhiều giá trị, tiêu biểu về chính trị, quân sự. Trải từ bắc vào nam, Quảng Bình có di tích thành, lũy tiêu biểu như Hoành Sơn quan, Lũy cũ Hoàn Vương, thành Cao Lao Hạ, Quảng Bình quan, thành Đồng Hới, lũy Thầy, thành Nhà Ngô,... Trong đó, lũy Thầy, Quảng Bình quan và thành Đồng Hới được ghi nhận những giá trị lịch sử, quân sự và nghệ thuật kiến trúc tiêu biểu của Quốc gia.

Di tích lịch sử Quốc gia Luỹ Thầy gắn liền với tên tuổi nhà quân sự tài ba Đào Duy Từ, người vừa hiến kế vừa chỉ huy xây dựng. Lũy Thầy là một công trình kiến trúc quân sự gồm ba luỹ Trường Dục, Nhật Lệ, Trường Sa, được xây dựng trong cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn thế kỷ XVII, tạo nên một tuyến phòng thủ có quy mô lớn nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Giá trị quân sự của Lũy Thầy phản ánh tầm nhìn chiến lược của Đào Duy Từ của một hệ thống phòng thủ hiệu quả trước các cuộc tấn công của quân Trịnh. Hiện nay, Luỹ Thầy không còn nguyên vẹn, chỉ còn lại một số đoạn, nhưng cũng đủ giúp chúng ta hình dung về quy mô và vai trò quân sự chiến lược trong các cuộc chiến đương thời. Giá trị và vai trò quan trọng về mặt chính trị, quân sự của Lũy Thầy được đề cao không chỉ đối với vùng đất Quảng Bình mà còn cả vùng Đàng Trong.  

Di tích lịch sử Quốc gia Quảng Bình Quan được xây năm 1631, là một trong ba cửa ải của luỹ Trấn Ninh, thuộc hệ thống lũy Thầy. Với tính chất quan trọng, năm 1837, vua Minh Mạng cho khắc hình tượng Quảng Bình Quan vào Nghị Đỉnh đặt ở sân Thế Miếu. Năm 1954, Quảng Bình Quan bị Pháp phá hủy, sau đó được phục hồi gần giống như cũ. Hiện nay, tuy kiến trúc và quy mô có nhiều thay đổi, nhưng vẫn nguyên giá trị lịch sử gắn với dinh Quảng Bình xưa. Giá trị chính trị, quân sự của Quảng Bình quan phản ánh qua vai trò trong tuyến phòng ngự của lũy Đâu Mâu - Nhật Lệ, thành Đồng Hới và cửa Nhật Lệ, án ngữ trên cả hai con đường Thiên Lý và Thượng Đạo. Quảng Bình quan không chỉ là cửa kiểm soát mà còn là một công sự chiến đấu, có quai thành bảo vệ bên ngoài. Trải suốt chiều dài lịch sử, Quảng Bình quan không chỉ có giá trị quân sự thời Nguyễn, mà còn là giữu vai trò quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ xâm lược của nhân dân Quảng Bình. Ngày nay, Quảng Bình quan trở thành một biểu tượng của tỉnh Quảng Bình.

Di tích lịch sử Quốc gia thành Đồng Hới là di tích kiến trúc thành luỹ quân sự, được xây dựng năm Gia Long thứ 16 (1812) trên nền thành Trấn Ninh và đồn Động Hải, nơi vùng đất xung yếu, giữ vai trò chốt chặn độc đạo trên con đường thiên lý Bắc - Nam. Năm 1824, vua Minh Mạng cho xây lại bằng gạch theo kiểu vô-băng, có 3 cổng lớn, trên có vọng lâu, mang chức năng lỵ sở của cơ quan đầu não, là trung tâm kinh tế - chính trị của phủ, huyện. Thành Đồng Hới là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng, từ thời Lý Thánh Tông và Lý Thường Kiệt đi chinh phạt giặc Chiêm Thành (thế kỷ XI), Trần Duệ Tôn (thế kỷ XIV), Lê Thánh Tông (thế kỷ XV) kinh lý phương Nam, cuộc hành quân thần tốc của anh hùng Nguyễn Huệ ra Bắc chinh phạt lũ bán nước và cướp nước. Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, thành Đồng Hới là nơi thể hiện lòng yêu nước và tinh thần quyết tâm chống giặc của người dân Quảng Bình.

Hệ thống di tích Quốc gia là đình, điện, chùa, miếu

Di tích đình làng, chùa, điện ở Quảng Bình ngoài những giá trị tiêu biểu về văn hóa, nghệ thuật kiến trúc còn mang các vai trò quân sự gắn với các cuộc đấu tranh cách mạng, có giá trị giáo dục chủ nghĩa yêu nước và lịch sử đấu tranh đối với các thế hệ trẻ. Vai trò quân sự của đình làng, chùa, điện ở Quảng Bình trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, phản ánh qua là chức năng là “trụ sở”, “căn cứ”, “hậu cứ”, “địa chỉ đỏ” của các phong trào yêu nước. Di tích chùa An Xá là nơi diễn ra Hội nghị cán bộ Đảng toàn tỉnh Quảng Bình nhằm thống nhất lực lượng Việt Minh vào ngày 2/7/1945. Đây là sự kiện có ý nghĩa rất quan trọng trong tập hợp thống nhất tổ chức lãnh đạo cơ sở Đảng toàn tỉnh chuẩn bị mọi điều kiện cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền. Đình làng Phù Trịnh, Lũ Phong, Lý Hòa,… là nơi tập kết và huấn luyện lực lượng, làm kho cất dấu lương thực, vũ khí, sân đình là nơi diễn ra các cuộc mít tinh của mặt trận Việt Minh kêu gọi quần chúng nỗi dậy giành chính quyền trong cách mạng tháng 8-1945. Đình Đồng Dương gắn với sự kiện ra đời chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên của xã Phong Trạch (1930-1931), là nơi đồng chí Đồng Sĩ Nguyên bí mật tổ chức các cuộc họp, là trụ sở của Uỷ ban hành chính của huyện, là trụ sở Bệnh viện Quảng Phương của những chiến sỹ mặc áo trắng. Đình Lũ Phong gắn với sự kiện thành lập chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên của huyện Quảng Trạch, nơi thành lập Ban vận động thống nhất Đảng bộ huyện, thành lập Uỷ ban khởi nghĩa, nơi hội họp, huấn luyện quân sự. Đình Minh Lệ là nơi Chi bộ Đảng cộng sản Minh Lệ được thành lập, là nơi tổ chức quyên góp vàng bạc với "tuần lễ vàng", "tuần lễ đồng" phục vụ kháng chiến lâu dài. Di tích miếu thành hoàng Mỹ Thổ - Trung Lực gắn với những sự kiện lịch sử tiêu biểu của Đảng bộ Quảng Bình, là nơi thành lập chi bộ đầu tiên ở phía Nam Quảng Bình vào đêm 17-11-1931, mang ý nghĩa mở đầu một thời kỳ mới trong phong trào đấu tranh, góp phần vào thắng lợi tổng khởi nghĩa tháng 8-1945 ở Lệ Thuỷ. Miếu cũng là nơi đóng trụ sở đầu tiên của tổng bộ Việt Minh.

Trong kháng chiến chống Mỹ, đình Hòa Ninh, Phù Trịch, Minh Lệ, Lý Hòa,… là trạm giao liên, kho cất dấu vũ khí, quân trang, quân dụng, gạo, muối, thuốc men,… để vận chuyển vào tiền tuyến; là nơi tập kết lực lượng, trú quân của bộ đội địa phương, tổ chức nhiều lớp huấn luyện quân sự, chính trị cho cán bộ, chiến sĩ đưa vào chiến đấu ở chiến trường miền Nam. Đình Phù Trịch, đình Lý Hòa, điện thành hoàng Vĩnh Lộc chùa Hoàng Phúc,... là địa bàn trọng điểm ác liệt, bị địch tập trung đánh phá suốt ngày đêm với hàng ngàn loại bom đạn, nhằm phá tan các cơ sở cách mạng, cắt đứt mạch máu giao thông. Đình làng Phù Trịch, điện thành hoàng Vĩnh Lộc gắn với thắng lợi của chiến dịch năm 1947, chiến thắng Phù Trịch - La Hà lừng danh vào mùa xuân 1950,... góp phần vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến ở Quảng Bình. Có thể nói đình làng là biểu tượng cho tinh thần “đình làng còn là làng còn, là cách mạng còn”, quân và dân địa phương kiên trì bám trụ, “một tấc không đi, một ly không rời”, “bám làng bám quê hương”. Với những giá trị đó, di tích đình, chùa, điện, miếu,... đã được chú trọng trùng tu, dựng bia, hàng năm tổ chức dâng hương, thăm viếng, trở thành “địa chỉ đỏ” có vai trò quan trọng trong giáo dục về truyền thống cách mạng cho các thế hệ trẻ.

Hệ thống di tích lịch sử quân sự gắn với kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.

Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, mỗi tấc đất, bến đò, mỗi xóm làng, đình chùa nơi đây đều ghi dấu những sự kiện lịch sử, những trận đánh hào hùng, những con người quả cảm, làm nên cao trào “Quảng Bình quật khởi”. Hệ thống di tích lịch sử gắn với kháng chiến chống Pháp và Mỹ ở Quảng Bình đa dạng và phong phú về loại hình, sự kiện, tên làng, tên người, địa điểm, trải từ đồng bằng lên núi rừng, từ làng quê đến đô thị, từ nhà ga đến bến phà, từ nhà nhóm đến chiến khu, từ phụ lão đến phụ nữ,…
Di tích lịch sử quân sự gắn với giai đoạn kháng chiến chống Pháp và Mỹ ở Quảng Bình tiêu biểu có “làng chiến đấu” Cự Nẫm và Cảnh Dương. Giá trị quân sự của làng Cự Nẫm là ngôi làng đầu tiên và điển hình của phong trào xây dựng “làng chiến đấu” chống Pháp ở Quảng Bình, gắn với những chiến thắng vẻ vang và tinh thần chiến đấu kiên cường của nhân dân "Cự Nẫm anh hùng". Giá trị quân sự của di tích làng chiến đấu Cự Nẫm và Cảnh Dương thể hiện qua sự sáng tạo trong đường lối chiến tranh nhân dân và tinh thần cách mạng của nhân dân. Di tích lịch sử kháng chiến gắn với làng xã còn có “Nhà nhóm thôn Trung” mang giá trị tiêu biểu của thời kỳ chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8-1945 ở Quảng Bình. Giá trị quân sự của di tích lịch sử “nhà nhóm thôn Trung” phản ánh qua vai trò “căn cứ huấn luyện quân sự” cho quân tự vệ võ trang các địa phương toàn tỉnh, chuẩn bị lực lượng giành chính quyền trong tổng khởi nghĩa cách mạng tháng 8-1945.

Di tích lịch sử kháng chiến gắn với hệ thống giao thông Bắc - Nam ở Quảng Bình tiêu biểu có di tích ga Kẻ Rấy ở thị trấn Hoàn Lão, bến phà Gianh ở Bố Trạch, bến đò mẹ suốt ở Đồng Hới, bến phà Quán hàu và Long Đại ở Quảng Ninh,… Giá trị quân sự của di tích ga Kẻ Rấy thể hiện qua vai trò là “địa điểm thành lập chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên của Quảng Bình” vào ngày 22-4-1930, một sự kiện có ý nghĩa đánh dấu bước ngoặt lịch sử, là nhân tố tạo nên thắng lợi của phong trào cách mạng. Di tích lịch sử bến đò Mẹ Suốt ở Đồng Hới là một di tích tiêu biểu cho ý chí chiến đấu của bà mẹ Việt Nam. Di tích lịch sử bến phà Gianh được thực dân Pháp xây năm 1886 phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa, sau năm 1954, bến phà Gianh được Chính phủ Việt Nam khôi phục sử dụng. Giá trị quân sự của di tích bến phà Gianh phản ánh trong vai trò về một “chốt điểm quan trọng đảm bảo mạch máu giao thông” chi viện kịp thời cho chiến trường miền Nam, góp phần vào thắng lợi cuối cùng, thống nhất đất nước. Giá trị quân sự của di tích bến phà Quán Hàu, Long Đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, gắn với những thắng lợi quyết định của quân ta trong chiến dịch Tết Mậu Thân năm 1968, chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1971, chiến dịch Trị Thiên năm 1972 và chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975.

Di tích trận địa pháo Đức Ninh nằm trên ngọn đồi cao, nơi bị không quân Mỹ đánh phá ác liệt. Giá trị quân sự của di tích lịch sử trận địa pháo Đức Ninh gắn với chiến tích của các “lão dân quân bắn rơi máy bay F105 và F4H Mỹ”, góp phần kích lệ truyền thống chiến đấu “giặc đến nhà, trẻ già đều là chiến sỹ”. Giá trị quân sự của di tích trận địa pháo nữ đại đội dân quân Ngư Thuỷ phản ánh qua vị trí chiến lược dọc bờ biển xã Hải Thuỷ, giáp với giới tuyến và đặc khu Vĩnh Linh, là "cửa ngõ" trong tuyến chi viện cho miền Nam bằng đường biển, bị đế quốc Mỹ thường xuyên bắn phá ác liệt.

Di tích lịch sử gắn với chiến khu kháng chiến tiêu biểu trong những năm đầu chống Pháp là chiến khu Trung Thuần ở Quảng Trạch. Giá trị quân sự của di tích phản ánh qua vai trò “thế mạnh hậu phương cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền thắng lợi” ở Trung Thuần, Quảng Phong và huyện Quảng Trạch trong cách mạng tháng 8-1945, là căn cứ cách mạng trong kháng chiến chống Pháp, là hậu cứ đặc biệt quan trọng trong kháng chiến chống Mỹ. Giá trị của di tích lịch sử chiến thắng Xuân Bồ là nơi ghi dấu trận chiến đấu oanh liệt của quân và dân ta với thực dân Pháp ngày 20-5-1950, trong chiến dịch Thu Đông, là minh chứng cho sự sáng tạo và bản lĩnh tinh thần không hề nao núng, quyết tâm đánh địch đến cùng của quân và dân Xuân Bồ và anh hùng Lâm Úy. 

Hệ thống di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt trên các tuyến đường huyết mạch như đường 20 - Quyết Thắng, đường 12A, đặc biệt là đường Hồ Chí Minh lịch sử,… mang nhiều giá trị về quân sự và chính trị trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đây là các tọa độ trọng yếu thường xuyên bị Mỹ tập trung bắn phá ngày đêm hòng phá hủy, cắt đứt tuyến vận chuyển xăng dầu chi viện cho tuyến đường 559 và các chiến trường miền Nam. Giá trị quân sự phản ánh qua vai trò các “trọng điểm”, “tuyến lửa”, “rổ bom”, gắn liền với những chiến tích và tên tuổi của các đơn vị anh hùng bất chấp mọi hy sinh gian khổ ngày đêm, tham gia chiến đấu, bảo vệ tuyến đường, cầu, cống, ngầm, kho xăng, đạn,… Mang giá trị têu biểu là di tích “Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh 559” ở huyện Minh Hóa là hang đá thuộc xã Hóa Tiến, trên đường 15 thuộc đường Hồ Chí Minh, đã trực tiếp chỉ huy vận tải chi viện cho chiến trường miền Nam - Lào - Campuchia trong thời kỳ 1965-1972 . Giá trị quân sự của di tích phản ánh qua các cuộc họp quan trọng, gắn với những quyết định chiến lược về cầu đường, vận tải, ngăn chặn không quân, mở chiến dịch mùa khô 1965-1966,... góp phần vào thắng lợi chung của cả nước.